và tác phẩm triết lí đó do ai sáng tác và sáng tác vào thời nào. Các người
Ấn theo Ấn giáo, Phật giáo chứ không theo đạo Hồi, mà mộ đạo, thành
kính thì cho rằng các thánh ca xuất hiện từ 6.000 tới 10.000 trước công
nguyên.
Các thánh ca đó gồm nhiều đoạn (thi tiết) mỗi đoạn thường có bốn câu,
mỗi câu lại xuống hàng. Số âm tiết (syllable) trong mỗi câu không nhất
định: hoặc 5, 6 hoặc 11, 12, nhưng bốn âm tiết cuối cùng thường gồm một
âm tiết dài, một âm tiết ngắn, lại tới một âm tiết dài, một âm tiết ngắn, hoặc
một âm tiết dài, một âm tiết ngắn rồi hai âm tiết dài.
Một vị tể tướng Ai Cập ở thế kỉ 29 trước công nguyên, tác giả một cuốn
về cách trị dân và xử thế. (ND).
Tức nước, lửa, đất, gió, tức như Trung Hoa gọi là hành (trong ngũ hành:
kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ). (ND)
Sách in là tinh trùng, tôi sửa lại là tinh dịch. Nguyên văn tiếng Anh là
semen. (Goldfish).
Coi chú thích trang sau. (ND).
Chưa rõ nguồn gốc tiếng này, có lẽ mới đầu nó trỏ cái linh khí như từ
ngữ La Tinh spititus, rồi trỏ cái khí, sau trỏ linh hồn.
Từ ngữ Brahman ở đây trỏ linh hồn của vũ trụ, không nên lầm với
Brahma (Phạn Thiên), một trong ba vị thần tối cao Ấn Độ (Brahma,
Vichnou, Shiva), cũng không nên lầm với Bà La Môn (Brahmane), một
hạng tu sĩ. Nhiều người quên không phân biệt như vậy và dùng Brahma với
nghĩa Brahman.
Trong số các triết gia tôn giáo, các tư tưởng gia của Ấn Độ, rất ít nhà
nghĩ tới thuyết thần nhân đồng hình (anthropromorphisme), nghĩa là thuyết
cho rằng thần cũng có hình thể như con người. Ngay cả trong những thánh
ca xuất hiện sau nhất trong kinh Rig-veda, đại danh từ trỏ Thượng Đế lúc
thì thuộc giống đực, lúc lại thuộc giống cái, hoặc thuộc trung tính (không
đực, không cái), để tỏ rằng Thượng Đế ở trên cao hết thảy và ở ngoài cái
“tính” (sexe).
Thuyết đó xuất hiện lần đầu trong Upanishad Satapatha: trong đời mà
làm bậy thì khi chết, các thần linh bắt phải đi đầu thai. Hầu hết các dân tộc