trong hợp đồng là sẽ chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, nếu thầy
thuốc đúng là bác sĩ, thì tòa án chuẩn y số tiền phải trả cho dịch vụ chứ không phải cho kết quả, vì lẽ bác
sĩ là các nhà chuyên môn chứ không phải dân thợ thủ công.
Các thầy thuốc có thể tham gia vào những cuộc tranh luận ngày càng rắc rối về bản chất và nguyên nhân
của bệnh, nhưng việc điều trị lại tụt hậu rất nhiều so với các lý thuyết mới mẻ nhất của họ. Những người
dân thường thông thái và hoài nghi nhận xét là sự sống và cái chết dường như chẳng liên quan gì đến
việc chữa trị y khoa. Một vị vua có thể có những thầy thuốc nổi tiếng nhất trên thế giới, nhưng khi bị
bệnh, những cơ hội hồi phục của nhà vua cũng chẳng khá hơn gì một anh nông dân không tìm được bác
sĩ. Khi trị liệu là khâu yếu nhất trong y học, thì sự an ủi tâm lý là đóng góp chính của thầy thuốc. Nếu
thế, thì lang băm đem lại nhiều an ủi hơn, và giá cả cũng rẻ hơn.
Mặc dù phẫu thuật và y khoa không thể tách rời nhau hoàn toàn, nhưng truyền thống và luật pháp đã
phân rõ cương vực quyền hạn của những người hành nghề. Theo quy định chung, các nhà phẫu thuật
được yêu cầu giải quyết những gì nằm ở ngoài cơ thể còn thầy thuốc thì những thứ nằm ở bên trong. Các
nhà phẫu thuật xử lý các vết thương, gãy xương, trật khớp, sỏi bàng quang, cắt chi, bệnh ngoài da và
bệnh giang mai. Họ thực hiện việc trích huyết dưới sự hướng dẫn của thầy thuốc, nhưng lại phải hỏi ý
kiến của thầy thuốc khi kê đơn chăm sóc hậu phẫu. Hành nghề ngoại khoa tự nó được phân theo các khu
vực riêng rẽ tùy thuộc theo địa vị, khả năng và đặc quyền giữa các nhà phẫu thuật, phẫu thuật-thợ cạo và
thợ cạo.
Các thầy thuốc được đào tạo từ trường đại học chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi những người truyền bá kiến
thức về nghệ thuật điều trị, nhưng họ rất quan tâm đến địa vị của nghề y. Các thầy thuốc tự cho mình là
người của văn học. Nhắc lời của Galen, họ lý luận “Người thầy thuốc giỏi trước hết phải là triết gia”.
Các thầy thuốc cho rằng y học là một khoa học phải được học từ các tài liệu cổ điển, chứ không phải qua
kinh nghiệm như thể một nghề thủ công. Thầy thuốc ưu tú có thể đòi hỏi mức lương cao hơn nhiều lần so
với phẫu thuật viên. Sự cách biệt về địa vị giữa thầy thuốc và phẫu thuật viên cũng bộc lộ rõ trong các
dịch vụ mà họ cung cấp. Lấy ví dụ, nghĩ rằng công việc tại các y viện chữa trị bệnh dịch hạch là một
dạng của án tử hình, cho nên thầy thuốc đứng ở ngoài nhà và hô to các chỉ dẫn cho các phẫu thuật viên ở
bên trong khám và điều trị cho bệnh nhân. Mặc dù nhiệm vụ đầy rủi ro như thế, thù lao cho các phẫu
thuật viên không nhiều. Cụ thể, một phẫu thuật viên trẻ tập sự được bổ nhiệm tới y viện chữa bệnh dịch
hạch năm 1631 (sau khi có hai phẫu thuật viên chết vì dịch hạch) sau đó chỉ được cấp đủ tiền mua một
bộ quần áo mới để thay cho bộ quần áo cũ được đem đốt đi vì anh ta đã mặc qua 8 tháng khi làm việc tại
y viện. Nếu người ốm không đủ tiền mời thầy thuốc hoặc phẫu thuật viên, thì họ có thể nhờ đến người
bán thuốc, là người chạy được cái độc quyền bào chế và bán thuốc.
Tại nhiều địa phương, giấy phép hành nghề y được cấp dựa trên quá trình đào tạo hoặc qua một kỳ thi
kiểm tra kỹ năng thực hành. Các thầy thuốc uyên bác xem hình thức cấp giấy phép sau này là một lỗ
hổng qua đó những kẻ cạnh tranh vô học, dốt nát tìm cách được luật pháp công nhận. Lỗ hổng này - việc
chứng minh khả năng và kinh nghiệm- tỏ ra rất quan trọng đối với phụ nữ, bởi vì họ không có con đường
để lấy bằng cấp đại học. Phần lớn các thầy thuốc phụ nữ là vợ góa của các thầy thuốc và phẫu thuật viên,
nhưng một số lại được phép hành nghề nhờ khả năng điều trị một số vấn đề nào đó. Thầy thuốc phụ nữ
đôi khi còn được nhà chức trách y tế tuyển dụng để chăm sóc các bệnh nhân nữ bị quản thúc trong các y
viện dịch hạch khi xảy ra các vụ dịch dịch hạch.