truyền bệnh thương hàn, tả, lỵ và nguyên một danh mục các bệnh tiêu
chảy ít nguy hiểm hơn. (Cả ruồi nhà và nhặng đều được xếp vào nhóm
“ruồi nhặng”.) Những nhà nghiên cứu người Anh đã ghi chép về mối
quan hệ chặt chẽ giữa số lượng quần thể ruồi nhặng và những ca ngộ
độc thức ăn gây ra bởi vi khuẩn Campylobacter, cả hai đều đạt đỉnh
vào những tháng ấm nhất (Người Anh thường nói về “chứng tiêu chảy
mùa hè” - phân nát và chứng chuột rút, cùng với những buổi đêm ấm
áp đom đóm lập lòe là những đặc điểm chính của mùa này.) Trong một
nghiên cứu vào năm 1991, một đơn vị dã chiến của quân đội Israel đã
thực hiện chương trình diệt trừ ruồi nhặng gắt gao, kết quả cho thấy
sau đó số ca ngộ độc thực phẩm của đơn vị này giảm 85% so với
những đơn vị tương tự không thực hiện chương trình.
Hướng dẫn đối phó với ruồi nhặng của ban Kiểm soát Côn trùng
gây hại trong Quân đội gồm có cả một thống kê về số lần nôn và thải
phân vào thức ăn của một con ruồi trong 24 giờ sau khi được cho uống
sữa có kiểm soát. Con số thống kê, trong khoảng từ 16 tới 31, thu
được không phải bằng cách thức cả đêm để quan sát con ruồi mà bằng
cách đếm những “vết phân” và “vết nôn mửa” (vết nôn có màu sáng
hơn vết phân). Người đọc được mời đoán về số vết này trên thức ăn
trong nhà ăn quân đội vào thời kỳ trước khi các nhà ăn được bịt kín.
Nạn ruồi hoành hành trong nhà ăn quân đội thời Chiến tranh Việt
Nam, bản hướng dẫn chỉ ra, trầm trọng đến nỗi “thật khó ăn hết một
bữa mà không nuốt phải một đến hai con ruồi…”
Nạn ruồi ở nhà ăn vẫn xảy ra, hầu hết ở thời điểm vài ngày hay vài
tuần đầu tiên của cuộc chiến, khi mà mọi thứ vẫn còn bề bộn. Vào giai
đoạn đầu, vũ khí và đạn dược được ưu tiên vận chuyển đến trước hơn
là nhà vệ sinh và tủ lạnh. Trong cuộc chiến Vùng Vịnh lần thứ nhất,
lính Thủy quân Lục chiến được điều tới khu vực này qua cảng Jubail,
nơi chính quyền Arab Saudi cho họ ở trong các nhà kho. “Chúng tôi
có mười nghìn lính Thủy quân Lục chiến và hai bệ xí xổm,” Joe
Conlon, nhà côn trùng học về hưu của Hải quân Mỹ, nhớ lại. Nhà vệ