được chấp nhận, Jezior sẽ tiếp tục phẫu thuật nối niệu đạo. Anh sẽ
cuộn mảng da cấy thành hình ống và nối nó với niệu đạo ban đầu, và
hy vọng thế là xong.
Khi phẫu thuật xong, Jezior lột đôi găng tay rồi đi thẳng tới chỗ
chiếc điện thoại đặt trên chiếc bàn nằm ở góc phòng phẫu thuật và
nhấn nút gọi chuyển tiếp. Mẹ của White đang đợi ở phòng bệnh của
cậu. “Cậu ấy đã tỉnh, mọi thứ đều tốt đẹp.”
Đ
ây là lần thứ ba trong ngày, tôi để lạc mất bác sĩ Jezior. Tôi cúi
xuống xỏ bọc giày chuyên dùng trong phòng phẫu thuật hoặc đi lấy
nước ở bình nước và khi quay trở lại, anh đã biến mất: bị kéo đi bởi
các y tá, một quản lý hay vợ một bệnh nhân. Anh không bao giờ từ
chối dù có đủ lý do để làm điều đó. Là người lúc nào cũng bận rộn,
dáng anh luôn hơi lao về phía trước khi đi qua các hành lang như thể
chỉ cần đến sớm một giây có thể giúp anh giải quyết được bớt đống
công việc cần phải làm vẫn còn tồn đọng. Đống tài liệu cần đọc trong
nhà vệ sinh ở văn phòng anh, tất cả đều về tiết niệu, cao đến nỗi có
nguy cơ làm sập bồn rửa.
Giống như một đứa trẻ lạc ở một khu phố mua sắm, tôi biết mình
nên ở yên tại chỗ và cuối cùng anh sẽ đến tìm tôi. Tôi đọc một số
thông tin trên “Thùng lưu trữ”, một trong số nhiều bảng tin treo dọc
các hành lang của Walter Reed. “Một ấu trùng ngài Ấn Độ đang hóa
nhộng trong tấm bìa các tông gấp nếp”, một chú thích dưới bức ảnh.
Đó là tấm ảnh trông có vẻ ghê rợn nhất mà tôi thấy trong ngày, cho
đến khi Jezior và tôi quay lại văn phòng của anh. Ở đó, tôi được cho
xem các bức ảnh của vài bệnh nhân tại Iraq. Tôi không những cảm
thấy ghê sợ mà còn hiểu rõ hơn hậu quả mà bom đạn gây ra, và cả
điều các bác sĩ phẫu thuật có thể làm để giúp bệnh nhân.
Jezior giải thích các bức ảnh bằng những từ ngữ đơn giản về giải
phẫu, nhưng không phải lúc nào tôi cũng thấy được sự ăn nhập giữa