đói nhất, họ đã sống ở các làng quê và có được nhận thức cũng như
hiểu biết sâu sắc về các nước đang phát triển. Nhiều người đã từ
bỏ con đường học vấn và sự nghiệp để tập trung giải quyết các vấn
đề xã hội. Jill đã làm việc cho nhiều tổ chức NGO quốc tế và
đang hoàn thành bằng thạc sỹ kép về quản lý tổ chức phi lợi nhuận
và nhân quyền. Cô ấy đã đồng ý trở thành đầu mối liên lạc cho
các nhân viên của chúng tôi ở trong nước. Hoolie sắp kết thúc bốn
năm ở cương vị tư vấn quản trị tại Deloitte và có kế hoạch thực tập
ở
Quỹ Sáng kiến Toàn cầu Clinton trong mùa hè đó trước khi đến
Dartmouth học MBA. Tôi đã thuyết phục cậu ấy thực tập tại PoP,
và sau một tháng ở Lào giúp Leslie và Lanoy xây dựng ngôi trường
hoàn toàn độc lập đầu tiên của PoP (chúng tôi tự thuê kiến trúc sư,
nhà xây dựng và nhân viên), tôi đề nghị cậu ấy làm COO (Giám
đốc tác nghiệp) cho chúng tôi.
“Thôi nào, cậu sẽ không bao giờ có được một cơ hội như thế này
trong đời đâu,” tôi hối thúc, cố gắng thôi thúc tinh thần khởi
nghiệp trong cậu ấy. “Cậu sẽ xây dựng một tổ chức từ đầu, dẫn dắt
một đội ngũ nhân viên và giáo dục hàng ngàn người trong quá trình
này đấy.”
“Cậu biết là tớ muốn làm việc này như thế nào mà,” cậu ấy trả
lời. “Nhưng vợ chưa cưới của tớ sẽ giết tớ mất nếu tớ trì hoãn việc
học ở trường kinh doanh thêm nữa, nhưng tớ đã bí mật đi phỏng vấn
cho vị trí gác cửa để có thể làm việc này khi làm việc vào ban đêm
kiếm thêm thu nhập rồi.”
Tôi sửng sốt. Anh chàng này từng làm việc cho một trong những
công ty tư vấn có uy tín nhất thế giới và đã được nhận vào chương
trình MBA của Dartmouth, ấy thế mà lại đang tìm công việc gác
cửa để có thể làm việc cho PoP. Tôi chưa từng ngờ vực tài năng của
cậu ấy, nhưng giờ thì đam mê của cậu ấy cũng khiến tôi choáng
váng.