lao động, để thay thế những công việc cũ đã bị giải phóng do tăng năng
suất trong những ngành công nghiệp thành công khác đồng thời để thay thế
những công việc mất đi trong những ngành có năng suất thấp và trở nên
kém cạnh tranh.
Vai trò phù hợp trong chính sách của chính phủ đối với nền công nghiệp
là thúc đẩy sự năng động và nâng cấp đó. Mục tiêu của chính phủ là phải
tạo ra một môi trường trong đó các doanh nghiệp có thể nâng cấp lợi thế
cạnh tranh trong những ngành công nghiệp hiện có bằng cách đưa ra những
công nghệ, phương pháp tinh vi hơn; và thâm nhập vào những phân đoạn
cao cấp hơn. Chính sách chính phủ cũng phải hỗ trợ năng lực của các
doanh nghiệp khi gia nhập những ngành công nghiệp mới có thể đạt được
năng suất cao hơn.
Một biểu hiện của nền kinh tế đang nâng cấp là sự chuyển dịch các công
việc kém năng suất sang các nước khác thông qua đầu tư nước ngoài và
mua hàng từ nước ngoài. Đây là một quá trình hữu ích, nếu đúng là những
công việc có năng suất thấp được chuyển ra nước ngoài. Nếu các công việc
năng suất cao bị mất vào tay các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, như trường
hợp của nhiều ngành công nghiệp Mỹ, Đức và Anh trong thập kỷ qua, sự
thịnh vượng kinh tế dài hạn có thể bị đe dọa.
Xác định những mục tiêu kinh tế quốc gia theo những tiêu chí không
phải là tăng trưởng năng suất dài hạn là một sai lầm cơ bản dẫn đến chính
sách không phù hợp. Không quốc gia nào có thể đạt được xuất khẩu ròng
trong mọi ngành công nghiệp, như tôi đã nói trong Chương 1. Những nỗ
lực níu giữ tất cả các ngành công nghiệp sẽ làm giảm mức sống quốc gia.
Cân bằng cán cân thương mại không phải là một mục tiêu hợp lý. Cố gắng
nâng sức cạnh tranh bằng cách phá giá đồng nội tệ cũng vậy. Tuy vậy, nếu
các chính sách luôn được đo lường bằng hiệu quả của chúng lên sự năng
động và tăng trưởng năng suất bền vững, khả năng bị lẫn lộn về mục tiêu sẽ
giảm hơn nhiều.
Nếu điều kiện tiên quyết đầu tiên cho chính sách công nghiệp lành mạnh
là mục tiêu hợp lý thì điều kiện thứ hai là một mô hình phù hợp về những