Những thảo luận về chính sách khuyến khích sức cạnh tranh
không lúc nào vắng bóng chính phủ quốc gia và toàn bộ bối cảnh
quốc gia. Nhưng cần phải tập trung sự chú ý tương đương hoặc
hơn nữa vào cấp vùng và địạ phương, trong những khu vực như
giáo dục đại học, cơ sở hạ tầng, qui định ở địa phương, những sáng
kiến nghiên cứu địa phương và thông tin. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, những sáng kiến của chính quyền trong các vùng như
Baden-Wurttemberg (Đức) và những thị trấn ở Ý đã có ảnh hưởng
lớn đến lợi thế cạnh tranh hơn bất kì sáng kiến chính sách quốc gia
nào.
6. Lợi thế cạnh tranh trong các ngành công nghiệp của một
quốc gia được tạo ra trong vòng một thập kỷ hoặc hơn chứ
không phải qua những chu kì kinh doanh 3-4 năm . Lợi thế
cạnh tranh được tạo ra qua một quá trình dài nâng cấp kĩ năng nhân
lực, đầu tư vào sản phẩm và qui trình sản xuất, xây dựng tổ hợp và
thâm nhập thị trường nước ngoài. Chẳng hạn, các nhà sản xuất ô tô
Nhật bắt đầu xuất khẩu vào những năm 1950, chỉ để giành được vị
thế quốc tế trong những năm 1970.
Nhưng một thập kỷ là quá lâu trong chính trị. Nhiều chính
sách kinh tế ở hầu hết các nước bị ảnh hưởng bởi những dao động
kinh tế ngắn hạn. Sự tập trung của chính phủ vào cải thiện cán cân
thương mại thông qua kiểm soát tiền lương, can thiệp ngoại tệ,
kiểm soát lạm phát và những bước đi khác có thể tác động đến
nhiều ngành công nghiệp nhưng còn lâu mới đóng vai trò quyết
định trong việc định hình lợi thế cạnh tranh dài hạn ở bất kì ngành
nào. Các chính phủ cũng thiên về lựa chọn các chính sách dễ đạt
được những tác động ngắn hạn như trợ cấp, bảo hộ hoặc dàn xếp