theo đuổi qui mô trên thị trường toàn cầu – sự năng động mà
những chính sách này đã làm suy yếu.
Áp lực và cảm giác về sự khẩn cấp là yếu tố cơ bản của lợi thế
cạnh tranh quốc gia. Chẳng hạn, các doanh nghiệp của Ý tiến vào
những phân đoạn cao cấp không phải khi đồng lira được định giá
thấp mà là khi đồng lira bị lên giá vào những năm 1970, buộc họ
phải nâng cấp sản phẩm và giới thiệu công nghệ hiện đại. Chỉ khi
những điều kiện cho đổi mới là thuận lợi (khách hàng khó tính,
cạnh tranh nội địa gay gắt, chẳng hạn) thì các chính sách như miêu
tả ở trên mới có thể hợp lý, trừ những nước đang ở trong giai đoạn
đầu của quá trình phát triển (giai đoạn cạnh tranh dựa vào yếu tố
sản xuất hoặc cạnh tranh dựa vào đầu tư sớm).
4. Sự thịnh vượng kinh tế quốc gia đòi hỏi các ngành công
nghiệp phải nâng cấp . Một số cơ sở cho lợi thế cạnh tranh dẫn
đến năng suất quốc gia cao hơn (và bền vững hơn) so với nhưng cơ
sở khác. Lợi thế cạnh tranh dựa trên những nguồn như tài nguyên
thiên nhiên dồi dào, chi phí lao động thấp hay phá giá nội tệ hoặc
thậm chí một ý tưởng sản phẩm mới, thường gắn với năng suất
thấp và không ổn định. Đặt lợi thế cạnh tranh dựa vào các nguồn
này dẫn các doanh nghiệp tới các chiến lược cạnh tranh dựa vào
giá và các phân đoạn thị trường nhạy cảm với giá. Lịch sử cho thấy
những chiến lược như thế cực kỳ dễ tổn thương không chỉ vì
những thách thức của các doanh nghiệp từ các nước khác mà còn
trước sự bảo hộ. Các doanh nghiệp cạnh tranh dựa vào giá thấp sẽ
mời gọi thuế chống phá giá và nhạy cảm nhất với hàng rào thuế
quan. Sự dễ dàng bắt chước của các doanh nghiệp từ các nước
đang phát triển và trợ cấp qui mô lớn của chính phủ cũng có thể vô
hiệu hóa những lợi thế này.