lên, đặc biệt từ những năm 1960. Ở Anh, Mỹ và Đan Mạch, vấn đề
không phải là ngành công nghiệp không cải tiến mà là không cải
tiến đủ nhanh.
Những tiêu chuẩn quốc tế đặt ra những mục tiêu chính sách tối
thiểu nếu một nước muốn nâng cấp nền kinh tế. Khi xây dựng
chính sách giáo dục kỹ thuật, chẳng hạn, tiêu chuẩn của Nhật và
Đức về số sinh viên tốt nghiệp và chương trình đào tạo của họ là
những mục tiêu phù hợp. Sự cải thiện dần dần trình độ quốc gia là
không đủ.
3. Sự năng động mang đến lợi thế cạnh tranh chứ không
phải lợi thế chi phí ngắn hạn . Lợi thế cạnh tranh quốc gia nảy
sinh từ năng lực cải tiến và đổi mới không ngừng của các doanh
nghiệp trong quốc gia đó. Những lợi thế cũ cuối cùng cũng bị các
doanh nghiệp từ nước khác sao chép hoặc làm lỗi thời.
Các chính sách đem lại những lợi thế chi phí tĩnh và ngắn hạn
nhưng lại làm suy yếu nghiêm trọng quá trình đổi mới và tính năng
động là một sai lầm phổ biến trong chính sách công nghiệp của
chính phủ. Bởi vì muốn giúp đỡ nên chính phủ quá dễ dàng áp
dụng những chính sách như phê chuẩn các dự án né tránh đầu tư
nghiên cứu và phát triển “tốn kém” hay chuẩn y những vụ sáp nhập
có hiệu quả về chi phí quản lý nhưng lại xóa bỏ cạnh tranh nội địa.
Những loại chính sách như thế và nhiều chính sách khác mà các
chính phủ áp dụng thường cản trở, làm chậm hoặc xóa bỏ nhu cầu
cải tiến và đổi mới, hoặc đánh những tín hiệu sai về nơi cần phải
đổi mới. Thậm chí nếu có tiết kiệm được 10% chi phí nhờ lợi thế
do qui mô, điều hiếm khi đạt được thông qua sáp nhập hoặc hợp
tác trong nước, thì lợi thế tiết kiệm đó cũng nhanh chóng bị vô hiệu
hóa nhờ cải tiến nhanh chóng sản phẩm cùng qui trình sản xuất và