chính phủ tài trợ đều dưới hình thức dự án liên kết với các viện
nghiên cứu liên quan đến các doanh nghiệp, tài trợ một phần hợp
đồng nghiên cứu giữa doanh nghiệp và các trường đại học hoặc
khuyến khích các nghiên cứu của các doanh nghiệp. Ngược lại,
Anh và Pháp có kết quả không hoàn hảo trong nghiên cứu và phát
triển vì các công chức giỏi ở các bộ tự lựa chọn những dự án hỗ
trợ. Ở Mỹ, một chương trình nghiên cứu liên bang lớn chỉ tình cờ
có chút lợi ích đối với lợi thế cạnh tranh bởi trong hầu hết các
trường hợp, chi tiêu nghiên cứu không có liên hệ gì tới ngành công
nghiệp.
Các chính phủ nên đóng vai trò trực tiếp chỉ trong những lĩnh
vực mà các doanh nghiệp không thể làm (như chính sách thương
mại) hay những lĩnh vực mà ngoại ứng làm cho các doanh nghiệp
không đầu tư đúng mức. Ngoại ứng xảy ra khi lợi ích thu được cho
cả quốc gia vượt quá lợi ích mà một doanh nghiệp thu được, do đó
các doanh nghiệp tư nhân có xu hướng không đầu tư đầy đủ vào
những lĩnh vực này như mong muốn của quốc gia. Những ví dụ tốt
là hệ thống giáo dục phổ thông, chất lượng môi trường, một số loại
nghiên cứu và phát triển có thể nâng cao năng suất trong nhiều
ngành công nghiệp.
2. Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trong một ngành là
tương đối . Nhiều thảo luận về lợi thế quốc gia chủ yếu là hướng
nội. Nhưng những tiêu chuẩn cho lợi thế cạnh tranh không chỉ
được xác lập trong một nước mà bởi các doanh nghiệp ở những
nước khác. Kĩ năng và động lực của lao động những nước khác
quyết định điều cần phải có ở trong nước. Tốc độ tăng trưởng năng
suất tuyệt đối không quan trọng bằng năng suất tương đối so với
các doanh nghiệp nước khác
. Tiêu chuẩn đã được liên tục nâng