như Meg, nhưng không ngờ đó lại là một căn hộ áp mái rất đẹp và được bài
trí đơn giản với nhiều tác phẩm điêu khắc thú vị, những bức họa đơn sắc và
đồ nội thất hiện đại. Tôi nghĩ đến căn hộ nhếch nhác của Marcus và lấy làm
mừng vì ở đây không có trò chơi video, bể cá cảnh, những đôi giày bẩn thỉu
hay vỏ bia lăn lóc.
“Em thích căn hộ của anh lắm. Hệt như gu của em,” tôi nói.
Anh có vẻ hãnh diện trước lời khen ngợi nhưng rồi lại thú nhận rằng đã
thuê người trang trí hộ. “Cô ấy làm khá tốt. Anh thì chẳng đủ kiên nhẫn
đâu.”
Tôi đưa mắt nhìn quanh một lần nữa, nhác thấy một bộ bàn ghế màu đỏ,
trên đó đầy những cây sáp màu, mấy tờ giấy và một bức tranh mới ghép
được một nửa của một nhân vật hoạt hình mà tôi không nhớ tên. “Chỗ chơi
của Max đây phải không?” tôi hỏi.
Anh gật đầu. “Ừ, dù phải nói thật là thằng nhóc lúc nào cũng vứt đồ vương
vãi khắp nơi, từ phòng ngủ cho đến mọi ngóc ngách trong nhà.”
Tôi cười.
“Em xem ảnh Max được chứ?”
Anh chỉ vào bệ lò sưởi. Trên đó có một tấm ảnh chụp cảnh Max đang bước
đi trên bãi biển rải sỏi, nheo mắt vì nắng. “Hồi đó nó mới được hai tuổi
rưỡi. Bức ảnh chụp ở căn nhà gỗ của anh tại thị trấn nhỏ St Mawes.”
“Cậu bé xinh quá. Trông cũng hơi giống anh đấy,” tôi nói, nhìn bức ảnh rồi
quay sang ngắm Geoffrey.
“Thực ra nó giống mẹ nhiều hơn,” Geoffrey đáp. “Nhưng lại bị di truyền
cái mũi của anh. Tội nghiệp thằng nhóc.”
Tôi bật cười bảo mình yêu cái mũi của anh. “Trông cá tính lắm,” tôi nói,
bỗng nhớ đến Rachel. Cô ấy luôn trông mặt mà bắt hình dong, lúc nào cũng