kính sẽ giải tội cho tôi bằng lời lẽ như thế nầy: "Con cứ yên tâm, con không
có tội gì cả, lỗi ở mẹ con, sao bà lại chết trong lúc con chưa đến tuổi vào
đời? Sao xã hội không bao bọc con trong nhung ấm. Con tiếp tục... Mỗi lần
có chi thắc mắc, hãy đến với cha!" Thế là tôi bình tâm trở lại, quay về lữ
quán, tiếp tục, tiếp tục việc bất lương cùng với quí ông . Cho đến một hôm,
ba cái thòng lọng được mắc lên và trước khi chui vào đó, tôi vỡ lẽ ra rằng
linh mục khả kính Francis chính là thủ lãnh của tôi...
Mary cười ngặt nghẽo, cười như một người điên, không tự chủ. Thình lình,
người đàn ông quát lên:
- Thôi! Cô vừa chứ, tôi hết chịu nổi cô! Cô có câm đi không thì bảo? Nầy
tôi nói thật, đừng tưởng tôi mê sắc đẹp cô. Cô là gì? Chỉ là một gái quê có
chút duyên sắc dễ coi, cô chả phải là thứ lá ngọc cành vàng trong cung
điện. Tôi chỉ quí mến cô ở óc mạo hiểm, ở trí thông minh và ở lòng can
đảm . Tôi nói cho cô biết, đừng có kiêu hãnh, vênh cái mặt lên, tôi không
hay nổi nóng. Nhưng tôi mà nổi nóng thì, cô biết chứ: cha phó Francis
Davey đã làm tôi nổi nóng, Joss Merlyn cũng chọc tức tôi, cô đừng dại dột,
xác cô sẽ chỉ có quạ biết thôi!
Mary không phải là thiếu nữ được bọc trong gòn như cô từng tự phụ.
Huống chi trong những ngày sống tại lữ quán Giao Mai nàng đã quen
đương đầu với những điều ghê gớm, đáng sợ nhiều lần. Cũng nhiều lần
thấy can đảm tinh thần, lòng yêu đời cùng một loạt hao hụt, tiêu tan, có lần
nàng muốn chết để khỏi chứng kiến những thử thách trên sức chịu đựng,
chạm đến lòng tin tưởng sắt đá về điều thiện, về lòng nhân mà nàng được
giáo dục từ tấm bé. Nhưng từ khi nàng được biết Jean Merlyn đã vào nhà
thờ hôm sáng chúa nhật trước khi tố cái kẻ sát nhân, được biết Jean không
phải như nàng nghi ngờ, thì nàng bỗng dưng yêu đời trở lại. Yêu đời như
khi còn mẹ, như khi nàng đứng tựa vào rào nhìn đàn gà tung tăng trong
nắng sớm, hay đàn vịt bì bõm dưới suối trong veo, như khi nào vuốt ve con
bê con óng mượt vừa chui ra khỏi lòng mẹ nó...
Vì vậy, nàng không nao núng trước những lời đe dọa của gã đàn ông, tuy