Hervé Joncour, ngay lúc đó, hiểu ra là mình sẽ tiếp tục nghe những chữ này
suốt cuộc đời anh . Anh đứng dậy rồi đứng im như thể anh quên mất chỗ
nào anh phải đi . Tiếng nói của Bạch nương vang đến tai anh tưởng như đến
từ xa lắm .
- Cô ấy còn muốn đọc lên lá thư đó cho tôi nghe . Giọng cô ấy thật tuyệt .
Và cô đọc những câu, chữ đó với một nỗi xúc động làm tôi không thể nào
quên được . Như thể những câu, những chữ đó, thực tình, là của chính cô .
Hervé Joncour đang đi ngang qua gian phòng, bước rất chậm .
- Ông biết không, tôi nghĩ rằng cô ấy khát khao hơn mọi thứ khác trên đời
được là người đàn bà đó . Ông không thể hiểu đâu . Nhưng tôi, tôi nghe cô
ấy đọc lá thư đó . Tôi biết thực như vậy .
Hervé Joncour đã đến trước cửa . Anh đặt tay lên nắm cửa, không quay
người lại, anh nói chậm rãi .
- Vĩnh biệt bà .
Hai người chẳng bao giờ gặp nhau lại nữa .
o0o
65
Hervé Joncour còn sống thêm hai mươi ba năm nữa, khỏe mạnh và thanh
thản phần lớn thời gian đó . Anh không bao giờ đi khỏi thị trấn Lavilledieu
và cũng chẳng ra khỏi nhà . Anh quản lý khôn khéo tài sản mình, điều này
giúp anh khỏi phải làm những công việc ngoài việc chăm sóc cái công viên
. Với thời gian anh bắt đầu cho phép mình cái thú vui mà trước đây anh
khăng khăng từ chối: kể những chuyến đi của mình cho những người đến
thăm viếng anh . Nghe kể chuyện, dân ở thị trấn Lavilledieu biết đến thế
giới, và trẻ em khám phá ra những điều kinh ngạc đáng phục . Anh kể chậm
rãi, từ từ, nhìn trong khoảng không những thứ mà người khác không thấy .
Ngày chủ nhật, anh xuống phố dự lễ cả ở nhà thờ . Mỗi năm một lần, anh đi
một vòng những nhà máy sợi, để rờ vuốt lụa nõn vừa mới ra đời . Khi nỗi
cô đơn bao phủ làm anh ngột ngạt, anh đi lên nghĩa trang, nói chuyện cùng
Hélène . Thời gian còn lại dành cho những thói quen sinh hoạt đã thành
nghi thức, giúp anh tránh được những nổi buồn rầu . Đôi khi, vào những