–Không có, ở Ấn Độ ta truyền pháp không có đem ca sa y bát làm vật y cứ,
vì tâm người Ấn Độ rất thẳng thắn, tu hành đắc đạo liền nói đắc đạo, chỉ
cần có người chứng minh đắc đạo là đủ. Nếu chưa được ấn chứng, họ sẽ
không nói là: tôi đã đắc đạo chứng quả, tôi đã chứng A La Hán, hoặc tôi đã
là Bồ Tát. Người Trung Quốc không giống như vậy. Ở Trung Quốc, người
có căn tánh Đại thừa cũng rất nhiều, nhưng người nói vọng ngữ cũng không
ít, tu hành chưa thành tựu đạo nghiệp mà khoe khoang đã thành; chưa
chứng quả cũng tự nói đã chứng quả, vì thế cần phải dùng ca sa y bát để
chứng minh. Cho nên nay ta truyền ca sa y bát cho ông, ông nên cẩn thận
giữ gìn.
Tổ sư Đạt Ma đến Trung Quốc, từng bị đầu độc sáu lần, vì đương thời Bắc
Ngụy có hai vị Pháp sư muốn hại Ngài, một vị là Bồ Đề Lưu Chi, một vị là
Luật sư Quang Thống. Họ rất đố kỵ Ngài, đã làm ra vài món đồ chay, trong
đó có chất độc cực mạnh đem đến cúng dường Ngài. Ngài biết trong thức
ăn có độc nhưng vẫn ăn một cách bình thường. Ăn xong kêu người đem
một cái mâm lại, Ngài mửa vài mâm một đống rắn. Thì ra chất độc đã biến
thành rắn. Bồ Đề Lưu Chi thấy độc không thể giết được Ngài, không hiểu vì
duyên cớ gì. Vì thế lần thứ hai bỏ liều lượng thuốc độc gấp đôi. Đạt Ma
cũng ung dung thọ dụng, ăn xong liền ngồi tại một tảng đá lớn, phun thuốc
độc ra, sức mạnh của thuốc độc đã làm bể tan tảng đá. Sau đó liên tiếp thêm
bốn lần hạ độc nữa nhưng đều không thể hại được Ngài.
Một ngày nọ, Tổ sư Đạt Ma nói với Đại sư Huệ Khả rằng:
–Ta đến Trung Quốc, để độ chúng sanh có căn tánh Đại thừa. Nay pháp đã
truyền, ta đã có người kế thừa, giờ viên tịch cũng đã đến.
Sau khi Tổ sư Đạt Ma viên tịch, chúng đệ tử dùng quan tài bọc xác Ngài
đem chôn. Nhưng lúc ấy, Bắc Ngụy có một sứ quan tên là Tống Vân, tại
vùng Thông Lãnh, trên đường đi gặp Tổ sư Đạt Ma. Tổ Sư, tay cầm dép,
nói với Tống Vân rằng: