thức mới có thể sanh ra. Nhứt thiết thiện căn cũng là do vị Thiện tri thức
hằng ngày chăm bón, vun tưới, thành tựu cho, giống như quý vị gặp được
Thiện tri thức ngày ngày thuyết pháp giáo hóa cho, đều là tăng trưởng thiện
căn của quý vị. Hết thảy Chư Phật ở thời quá khứ, thời hiện tại, thời vị lai,
và mười hai phần kinh, trong tự tánh mỗi người vốn đều có đầy đủ, không
phải tìm cầu bên ngoài. Nhưng nếu quý vị không hiểu rõ thì cần phải hỏi
Thiện tri thức chỉ thị diệu thể tự tánh thanh tịnh bổn lai của mình, như thế
quý vị mới có thể nhìn thấy bổn tánh của chính mình.
*
Nếu tự mình hiểu rõ, thì chẳng cần cầu nơi ngoài. Nếu một mực cố
chấp rằng phải cầu bực Thiện tri thức, mới mong đặng giải thoát, thì
không có lý như vậy. Bởi cớ sao? Bởi trong tâm mình đã sẵn có cái cơ
tri thức tự ngộ. Nếu tâm mình khởi tà mê, vọng niệm, điên đảo, thì dầu
ngoài có Thiện tri thức truyền dạy, cũng không thể cứu được. Bằng
tâm mình khởi chơn chánh, trí Bát nhã thường chiếu soi, thì trong một
sát-na, các điều vọng niệm đều dứt hết. Nếu biết Bổn tánh mình, vừa
một niệm giác ngộ thì liền đến cõi Phật.
Giảng:
Tự mình nếu có thể hiểu rõ, thì không cần nương tựa vào ai hoặc bất cứ cái
gì, hoặc giong ruổi tìm cầu ở bên ngoài. Nếu lúc trước thường hay chấp
trước, dựa dẫm vào sự chỉ dạy của Thiện tri thức mới có thể giải thoát, thì
điều này thì không đúng. Chúng ta cần phải tự tánh tự ngộ, khai thác sử
dụng trí tuệ Bát nhã vốn đầy đủ của chính mình. Tại sao? Bởi vì tự tánh
mình vốn có sẵn đại Thiện tri thức chân chánh. Đây cũng là trí huệ chân
chánh của quý vị, có thể tự mình hiểu rõ. Nếu tự mình sanh ra tà kiến mê
lầm, tà chính là không chân chánh, mê chính là không hiểu rõ. Ví dụ, không
hiểu rõ là tà mê, sai lầm, ví như một vài sở thích không tốt: đánh bạc thì có
sự tà mê của đánh bạc, hút thuốc thì có sự tà mê của hút thuốc, háo sắc thì