ty Algonquin. Cô lại cào vào ngón tay cái và - như thể để buộc mình dừng
hành động ấy lại - cô xỏ đôi găng tay cao su vào.
Lon Sellitto nói chuyện điện thoại với các cảnh sát đang đi dọc phố Năm
mươi bảy để tìm kiếm nhân chứng. Rhyme thoáng nhìn anh ta dò hỏi nhưng
vẻ cau có của anh ta - trầm trọng hơn vẻ cau có bình thường hay tô điểm cho
nét mặt của viên trung úy - nói lên rằng các nỗ lực đến hiện tại vẫn chưa có
kết quả. Rhyme lại chú ý đến sợi dây điện.
“Quét camera qua nó đi, Mel.” Rhyme bảo. “Từ từ thôi.”
Sử dụng một thiết bị video cầm tay, người kỹ thuật viên quét qua sợi dây
điện từ đầu tới cuối, rồi lật lại, quét ngược lại lần nữa. Hình ảnh được phát
với độ nét cao lên màn hình lớn trước mặt Rhyme. Anh nhìn chăm chú.
Rồi anh lẩm bẩm, “Nhà máy sản xuất linh kiện điện Bennington, Nam
Chicago, Illinois. Model AM-MV-60. Dây cỡ 0 (tương đương đường kính
khoảng 8,251mm) , chịu được dòng điện lên tới sáu mươi nghìn volt.”
Pulaski cười thành tiếng. “Lincoln, sếp biết những thông tin ấy ạ? Sếp đã
tìm hiểu về dây điện ở đâu vậy?”
“In trên dây đấy, cậu tân binh.”
“Ồ. Tôi không để ý.”
“Hiển nhiên rồi. Và thủ phạm của chúng ta đã cắt một đoạn dài bằng ngần
này, Mel ạ. Anh nghĩ thế nào? Không phải cắt máy.”
“Tôi đồng ý.” Sử dụng kính lúp, Cooper đang xem xét đầu cáp được đấu
với đường dây của trạm điện. Rồi anh ta tập trung hình ảnh vào hai mặt cắt.
“Amelia?”
Thợ cơ khí tại gia của họ xem xét nó, “Cưa tay kim loại.” Cô phát biểu ý
kiến.
Hóa ra bu lông có chốt hãm được sử dụng riêng trong ngành điện, nhưng
lại có tới hàng chục xuất xứ.
Hai bu lông bắt sợi dây điện với bản đóng cũng là loại tương tự.
“Lập bảng chứng cứ đi.” Rhyme bảo.
Pulaski lăn mấy tấm bảng trắng từ góc phòng thí nghiệm ra. Phía trên
cùng một tấm bảng, Sachs viết: Hiện trường Vụ án: Trạm Manhattan-10 công
ty Algonquin, phố Năm mươi bảy mạn Tây. Trên một tấm bảng khác là Hồ sơ