khác nhau. Rồi gã lại liếc nhìn lên trang bị đo độ nghiêng được gắn trên một
xà ngang trên trần. Gã gật đầu. “Có vẻ như chúng ta đã bằng phẳng lại rồi đó,
thưa Đại tá. Sàn bay chắc đã phải ổn và bằng phẳng rồi.”
Gã bấm vài nút và kiểm tra một màn ảnh thứ ba. “Tất cả số nước ấy đã
khiến chúng ta ngập sâu hơn trong nước và chúng ta sẽ mất một ít tốc độ.”
“Hi vọng rằng cái đó sẽ không tạo ra vấn đề gì.” Romano nói. “Sĩ quan
Phi Hành đã cam đoan là chúng ta có thể bù đắp việc bị giảm tốc độ bằng
cách gia tăng tốc độ máy phóng và cường độ của hệ thống EMALS
. Ít ra
khái niệm là như thế. Chúng ta không thể biết chắc được cho đến khi làm
thử.”
EMALS viết tắc cho Electromagnetic Aircraft Launch System, kỹ thuật
thế hệ mới của sàn bay đã thay thế hệ thống phóng bằng hơi ép, được trang bị
trên các hàng không mẫu hạm thuộc lớp mới của Mỹ. Hệ thống dùng điện
này nhẹ hơn, nhanh hơn và hữu hiệu hơn xa loại hệ thống cơ khí dùng hơi
nước trước đó. Quan trọng hơn là EMALS cung cấp mức điều khiển chính
xác chưa từng có, giúp cho hệ thống này có thể phóng bất cứ thứ gì, từ máy
bay không người lái loại nhẹ cho đến những máy bay nặng quá năng lực của
các hệ thống phóng cũ.
Trên lý thuyết, một chiếc tàu sân bay có trang bị hệ thống EMALS có thể
phóng máy bay với sức gió tương đối chưa tới 10 hải lý/giờ trên sàn bay
Cái này khác xa tốc độ hơn 30 hải lý/giờ mà các tàu sân bay được trang bị hệ
thống cũ đòi hỏi phải đạt đến.
Họ sẽ sớm biết được lý thuyết này có đúng với sự thật hay không.
Romano nhấc một chiếc điện thoại và bấm nút phòng chỉ huy. “Thưa đô
đốc, đây là Đại Tá Romano. Tôi đang trên đường lên phòng điều hành.
Chúng ta có thể chuẩn bị cất cánh bất cứ lúc nào đô đốc sẵn sàng.”
Hắn lắng nghe vài giây, lễ phép chào rồi gác máy, tiến ra cửa.
“Phải thành công,” hắn tự nói. “Nhất định phải thành công.”