thuyền bè khảm qua sông, mỗi lúc một đổ lên đất bao nhiêu kẻ hoặc vì
phận sự mà đến hoặc bởi tính tò mò.
Cát đường lầm lên như đám sương mù theo gió bay tỏa dưới ánh sáng
chói lọi tự nền mây xanh gieo xuống. Bỗng, một tiếng sấm ào vĩ đại, mãnh
liệt, xa xôi vẳng lại, át hẳn tiếng nhộn nhịp của đám đông, tựa hồ tiếng hổ
gầm làm cho cây cối phải nín bặt. Gió lúc ấy đã tắt vậy mà từ xa một cơn
lốc bụi vẩn lên, là là tiến đến như đám mây sắc vàng nhạt.
Tiếng động mỗi lúc một rõ, một gần, như cơn giông tố rồi tự đầu khúc
đường cái quan thẳng tắp, trắng phau dưới ánh nắng, người ta bắt đầu nhận
thấy bọn quân nhạc. Khúc khải hoàn nổi dậy, ầm ầm như bão giật sấm rền.
Sau đám nhạc, bọn tù binh lốc nhốc bước nhanh, tóc rối bù, mặt nhem
nhuốc, áo xống tả tơi. Kẻ này bị trói riệt cánh khuỷu ra đằng sau, kẻ kia bị
xiềng từng tốp một, có kẻ gông đóng, chóng mang, cử động một cách đau
đớn, ê chề.
Quân canh tù chia làm hai hàng đi kèm hai bên, tay luôn luôn đánh đập
để thôi thúc những kẻ khốn nạn kia không được khóc than hoặc chậm chạp.
Bọn lính cầm cờ tiếp ngay đám ấy. Nào cờ ngũ hành, cờ tuyết mao, nào dùi
đồng, phủ việt, rực rỡ chói lòe.
Quan dân lúc ấy đứng dạt ra, yên phăng phắc, vừa có dáng kinh sợ vừa
có vẻ hãi hùng. Trong bọn cầm cờ, một tên võ sĩ cầm loa báo những tin đắc
thắng của toán sĩ tốt ban sư, cố ý ca tụng công lao của Thủ Độ. Cứ mỗi câu
nói phát ra từ miệng loa, dân chúng lại hò reo ầm ĩ. Sau cùng, Thủ Độ cưỡi
voi tiến đến.
Các nhà sư xếp hàng ra đón và cứ thủng thỉnh đi giật lùi ở trước đầu voi,
tay giơ những cái lư trầm, khói thơm nghi ngút bốc lên. Thủ Độ, trước
những cách tiếp rước long trọng đó, vẫn điềm nhiên như một pho tượng
bằng đồng. Văn võ đình thần khâm mạng Hoàng đế Trần Thái Tông (lúc