Chương 12
TÌNH TRẠNG DỰ KIẾN DÀI HẠN
I
C
húng ta đã thấy trong chương trước rằng quy mô đầu tư tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa lãi suất và đồ thị
hiệu suất biên của vốn tương ứng với các mức quy mô khác nhau trong đầu tư hiện tại, hiệu suất biên của vốn thì
lại tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa giá cung của một tài sản vốn (tư liệu lao động) và lợi tức triển vọng của nó.
Trong chương này, chúng ta sẽ xem xét tường tận hơn nữa một vài nhân tố quyết định lợi tức triển vọng của tài sản
vốn.
Những lý do mà dựa vào đó để đưa ra những dự tính về lợi tức triển vọng một phần tuỳ thuộc vào những số
liệu hiện có mà chúng ta có thể giả thiết là ít nhiều dã biết chắc chắn, và một phần vào các sự kiện tương lai mà ta
chỉ có thể đoán trước với độ tin cậy ít hay nhiều. Trong loại nhân tố thứ nhất, chúng ta có thể kể đến các loại tài
sản vốn hiện có và các tài sản vốn nói chung và cường độ của nhu cầu hiện tại của người tiêu dùng đối với các loại
hàng hoá đòi hỏi phải có một số vốn tương đối lớn để có thể sản xuất một cách có hiệu quả. Loại nhân tố thứ hai
gồm có những thay đổi tương lai về chủng loại và số lượng các tài sản vốn khác nhau và về sở thích của người tiêu
dùng, về mức cầu thực tế trong những thời kỳ khác nhau suốt thời gian sử dụng vốn đầu tư đó, và những sự thay
đổi về đơn vị tiền lương tính trên cơ sở tiền tệ mà có thể xảy ra trong thời gian đó. Chúng ta có thể tổng kết tình
trạng dự kiến về mặt tâm lý được gọi là “tình trạng dự kiến dài hạn” để phân biệt với dự kiến ngắn hạn mà trên cơ
sở đó nhà sản xuất ước lượng sẽ thu được bao nhiêu tiền lời đối với một thành phẩm mà người đó quyết định bắt
đầu sản xuất với các máy móc thiết bị hiện có mà chúng ta đã xét đến trong chương 5.
II
Khi đưa ra những dự kiến, nếu chúng ta lưu tâm quá nhiều đến những vấn đề rất không chắc chắn
thực là điều điên rồ. Do đó, thật là hợp lý khi chúng ta lưu ý đến những sự việc mà chúng ta có cảm giác là nắm
được tương đối chắc chắn, dù chúng có thể không có một tầm quan trọng quyết định như những sự việc khác mà
nhận thức của chúng ta về chúng còn hạn chế và mơ hồ. Vì thế, có thể nói các sự việc có liên quan đến tình trạng
hiện nay có một vai trò không thật tương xứng trong việc hình thành những dự kiến dài hạn của chúng ta; cách
làm thông thường mà chúng ta đang tiến hành là nhận định về tình hình hiện tại và đưa ra những phỏng đoán về
tương lai, và chỉ sửa đổi những gì mà trong một chừng mực nào đó chúng ta có những lý do xác thực để dự kiến
một thay đổi.
Vì thế, tình trạng dự kiến dài hạn mà dựa vào đó chúng ta ra những quyết định không chỉ tuỳ thuộc vào
những dự báo có xác suất lớn nhất, mà còn tuỳ thuộc vào sự tin tưởng khi chúng ta đưa ra dự báo này, và chúng ta
cũng phải tính đến khả năng những dự báo mà chúng ta cho là tốt nhất lại trở thành sai lầm. Nếu chúng ta dự kiến
sẽ có những biến đổi lớn nhưng lại không chắc là những biến đổi đó sẽ diễn ra dưới hình thức nào, thì sự tin tưởng
của chúng ta sẽ bị giảm đi.
Tình trạng tin tưởng là một vấn đề mà những người có đầu óc thực tế luôn luôn chú trọng và bận tâm nhất.
Nhưng các nhà kinh tế học đã không phân tích được kỹ càng tình trạng này, và thông thường họ đã tỏ ra bằng lòng
và thoả mãn khi bàn luận đến tình trạng đó một cách chung chung. Đặc biệt, họ chưa nhận thức được rõ ràng sự
thích ứng của tình trạng tin tưởng với các vấn đề kinh tế là do ảnh hưởng quan trọng của sự thích ứng đối với đồ
thị hiệu suất biên của vốn. Có hai yếu tố riêng biệt tác động tới mức độ đầu tư, đó là đồ thị hiệu suất biên của vốn
và tình trạng tin tưởng. Tình trạng tin tưởng có ảnh hưởng đến mức đầu tư vì chính nó là một trong những nhân tố
quan trọng quyết định đồ thị hiệu suất biên của vốn mà cũng giống như đường cầu về đầu tư vậy.