Tuy nhiên, chưa thật cần thiết phải nói trước nhiều về tình trạng tin tưởng. Những kết luận của chúng ta chủ
yếu phải dựa vào quan sát thực tế thị trường và tâm lý kinh doanh. Đây chính là lý do khiến cho việc đi ra ngoài
đề sau đây ở một mức trừu tượng khác với hầu hết nội dung nói trong cuốn sách này.
Để tiện cho việc trình bày, trong phần bàn luận tiếp theo đây về tình trạng tin tưởng chúng ta sẽ giả định rằng
không có những thay đổi về lãi suất và chúng ta sẽ viết trong các tiết tiếp theo rằng như thể những thay đổi về các
giá trị đầu tư chỉ là do những thay đổi dự tính về khoản lợi tức tương lai, chứ không phải do những thay đổi về lãi
suất mà với các lãi suất đó các khoản lợi tức tương lai được chuyển thành vốn. Tuy thế, ảnh hưởng của những thay
đổi về lãi suất cũng dễ dàng làm tăng thêm ảnh hưởng của những thay đổi về tình trạng tin tôi ưởng.
III
Sự việc nổi bật trong lĩnh vực này là tính hết sức không chắc chắn của cơ sở hiểu biết mà theo đó chúng ta
ước tính lợi tức tương lai. Sự hiểu biết của chúng ta về những nhân tố sẽ chi phối lợi tức của việc đầu tư trong vài
năm sau thường rất mỏng manh và nhiều khi không đáng kể. Thành thật mà nói, chúng ta phải thú nhận rằng
những kiến thức làm cơ sở cho việc chúng ta dự tính số lợi tức trong 10 năm sau (thậm chí chỉ 5 năm sau thôi) của
một đường xe lửa, một mỏ đồng, một nhà máy dệt, một thứ thuốc chế biến theo bằng sáng chế, một con tàu chạy
xuyên Đại Tây Dương, một toà nhà xây dựng tại thành phố London thật là quá ít đôi khi tưởng như chẳng có gì cả.
Trên thực tế, những người nghiêm túc đưa ra những con số dự tính như vậy thường chỉ là một số người thiểu số
đến mức những cố gắng của họ không thể nào chi phối được thị trường.
Trước kia, khi các doanh nghiệp còn ở dưới quyền sở hữu của chính những người gây dựng ra các doanh
nghiệp đó hay của bạn bè, thân thích của họ, thì sự đầu tư tuỳ thuộc vào mức đóng góp của các cá nhân có tinh
thần lạc quan và đầu óc xây dựng; họ chọn nghề kinh doanh như một lối sống mà thực sự không hề nghĩ đến
những tính toán về mặt lợi nhuận trong tương lai. Công cuộc kinh doanh phần nào mang tính chất một cuộc xổ số,
mặc dù kết quả cuối cùng tuỳ thuộc khá nhiều ở chỗ là các nhà quản lý kinh doanh có khả năng và tài trí đến đâu.
Do đó, cũng có những người thành công nhưng cũng không ít kẻ thất bại. Nhưng ngay cả sau khi tiến hành kinh
doanh, họ cũng chẳng rõ là kết quả của số tiền vốn đầu tư so với lãi suất lúc đó thì hơn kém như thế nào. Tuy
nhiên, nếu không kể đến sự cần thiết phải khai thác tài nguyên thiên nhiên và thực hiện các độc quyền cần thiết,
thì ngay cả ở giai đoạn tiến bộ và phồn vinh, kết quả bình quân thực tế của các công cuộc đầu tư nói trên thường
làm tiêu tan hy vọng đã thúc đẩy họ dính líu vào các công việc kinh doanh đó. Đó là một thứ trò chơi vừa đòi hỏi
tài trí, vừa dựa vào may rủi mà các nhà kinh doanh trước đây đã thực hiện, và những người tham gia đều không rõ
kết quả ra sao. Nếu bản chất của con người không cảm thấy bị lôi cuốn vào một trò chơi may rủi, không thấy thích
thú gì (trừ lợi nhuận) khi xây dựng một nhà máy, một đường xe lửa, khai thác một mỏ khoáng sản hay mở mang
một trang trại, thì chắc chắn những công cuộc đầu tư cũng không có nhiều lắm và cũng chỉ là kết quả của một sự
tính toán lạnh lùng mà thôi.
Tuy nhiên, các quyết định đầu tư trong lĩnh vực kinh doanh tư nhân theo kiểu cũ phần lớn là những quyết
định không dễ gì thay đổi được không những đối với cộng đồng nói chung, và kể cả với cá nhân từng người. Với
cách thức làm ăn hiện nay, khi có sự tách rời quyền lực giữa một bên là chủ sở hữu và một bên là bộ phận quản trị,
cùng với sự phát triển của các thị trường đầu tư có tổ chức, thì đã xuất hiện một nhân tố mới rất quan trọng, nhân
tố này đôi khi làm cho đầu tư dễ dàng hơn, nhưng đôi khi lại gây ra sự mất ổn định của hệ thống. Trong trường
hợp không có các thị trường chứng khoán, thì không có lý do gì để định giá lại vốn đầu tư mà chúng ta đã cam kết
thực hiện. Nhưng sở giao dịch chứng khoán định giá lại nhiều loại vốn đầu tư hàng ngày và những sự định giá lại
lại luôn luôn tạo cơ hội cho cá nhân (mặc dù không phải cho toàn thể cộng đồng) để xem xét, sửa đổi các cam kết
của mình. Cũng như trường hợp một trại chủ, sau khi áp kế sau khi ăn sáng, có thể quyết định rút vốn của ông ta ra
khỏi cơ sở kinh doanh nông nghiệp hồi 10 hay 11 giờ buổi sáng hôm ấy và sẽ xem xét lại có nên đầu tư vốn trở lại
vào cơ sở đó hay không vào cuối tuần. Mặc dầu những sự định giá lại đó của sở giao dịch chứng khoán chủ yếu là
nhằm mục đích làm dễ dàng cho việc chuyển nhượng các số vốn đầu tư cũ giữa một cá nhân này với một cá nhân
khác, nhưng chúng lại có một ảnh hưởng quyết định đối với tốc độ đầu tư hiện tại. Vì không nên xây dựng một xí