V
Một số nhân tố làm tăng thêm tính không ổn định này có thể được trình bày tóm tắt dưới đây:
(1) Do kết quả của việc tăng dần tỉ lệ cổ phần không có lãi cố định (equities) trong tổng số vốn đầu tư của cộng
đồng mà chủ sở hữu của các cổ phần đó không trực tiếp quản lý và cũng không có kiến thức chuyên môn nào
về các tình tiết, hoặc hiện tại hoặc tương lai, của công việc kinh doanh mà họ có dính líu vào; cho nên yếu tố
về sự hiểu biết thật sự trong việc đánh giá các vốn đầu tư của những người sở hữu các số vốn hoặc dự định
mua các số vốn đó đã giảm sút một cách nghiêm trọng.
(2) Những biến động hàng ngày về lợi nhuận của những vốn đầu tư hiện có, mặc dù rõ ràng chỉ có tính tạm thời và
không quan trọng, lại có chiều hướng gây một ảnh hưởng quá đáng và đôi khi phi lý đối với thị trường. Ví dụ,
mọi người đều nói rằng cổ phần của các công ty Mỹ sản xuất nước đã có chiều hướng báo với giá cao hơn vào
mùa hè khi lợi nhuận của các công ty thường cao hơn theo mùa, nghĩa là cao hơn so với mùa đông, khi không
một ai muốn dùng nước đá. Cũng giống như thế, cứ đến ngày các ngân hàng nghỉ thì trên thị trường việc định
giá ngành đường sắt có thể được nâng lên đến vài triệu bảng Anh.
(3) Một sự đánh giá theo quy ước dựa trên kết quả của tâm lý đại chúng của một số lớn các cá nhân không có hiểu
biết về tình hình thị trường dễ bị thay đổi khá mạnh vì dư luận thay đổi bất thường do những nhân tố mà thực
sự không gây nên những sự khác biệt đáng kể đối với lợi nhuận tương lai. Vì không có những cơ sở vững chắc
nào để duy trì sự đánh giá đó. Đặc biệt, trong những thời kỳ không bình thường, khi giả thiết về sự tiếp diễn
không hạn định của tình trạng kinh doanh hiện tại là có vẻ bất hợp lý, ngay cả khi không có lý do rõ rệt nào để
thấy trước một sự thay đổi nhất định thì thị trường vẫn bị lệ thuộc vào tình cảm lạc quan hay bi quan không có
lý do rõ ràng, nhưng suy cho cùng, điều đó cũng dễ hiểu vì thực ra chẳng có một cơ sở nào vững chắc để dưa
ra một sự tính toán hợp lý cả.
(4) Nhưng có một nét đặc thù mà ta cần phải lưu ý đến. Đã có thể giả định rằng sự cạnh tranh giữa các nhóm
chuyên nghiệp khá thông thạo, có những phán đoán vững vàng và có kiến thức cao hơn các nhà đầu tư bình
thường, sẽ làm cho những cá nhân kém hiểu biết sửa chữa những sai sót của họ. Tuy nhiên, sự việc xảy ra là
năng lượng sự và sự khôn khéo của nhà đầu tư và đầu cơ chuyên nghiệp lại thường được dùng vào các lĩnh vực
khác. Thực ra, hầu hết những người này đều không chú trọng chút nào tới việc dự đoán dài hạn về tình hình lợi
tức có khả năng thu được của số vốn đầu tư trong suốt thời gian sử dụng nó, mà lại quan tâm nhiều hơn đến
những dự đoán ngắn hạn trên cơ sở quy ước để đánh giá nắm được tình hình công chúng nói chung. Họ quan
tâm không phải về mặt giá trị thực tế của số vốn đầu tư đối với người mua lại nó để “giữ lại làm vốn” mà lại
chủ yếu xem thị trường đánh giá đầu tư đó ở mức nào qua ảnh hưởng tâm lý của công chúng trong khoảng 3
tháng hay một năm sau. Hơn nữa, phải thấy rằng đây không phải là một xu hướng sai lầm, mà là hậu quả tất
yếu của một thị trường đầu tư được tổ chức theo những nguyên tắc đã nói ở trên. Vì thật là phi lý nếu người
nào đó trả 25 đồng cho một vụ đầu tư mà họ tin rằng lợi tức tương lai chỉ có thể mang lại một giá trị là 30
đồng, nếu cùng lúc đó họ lại tin rằng thị trường sẽ đánh giá vụ đầu tư đó chỉ còn 20 đồng trong 3 tháng nữa.
Như vậy, nhà đầu tư chuyên nghiệp buộc phải chú trọng đến việc dự đoán những thay đổi sắp xảy ra về
mặt tin tức hoặc tình hình vì kinh nghiệm cho thấy rằng những tin tức và tình hình có ảnh hưởng mạnh tới tâm
lý công chúng. Đây là hậu quả tất yếu của thị trường đầu tư có tổ chức nhằm mục đích đạt tới cái thường được
gọi là “tính chuyển hoán” (liquidity). Trong các nguyên tắc của nền tài chính chính thống, chắc chắn không có
nguyên tắc nào có tính phản xã hội hơn sự tôn sùng tính chuyển hoán. Học thuyết này chủ trương rằng các
thiết chế đầu ư có nhiệm vụ tập trung các nguồn lực của họ vào việc nắm giữ các chứng khoán dễ chuyển hoán
(“liquid” securities). Học thuyết này quên rằng không hề có cái gọi là khả năng dễ chuyển hoán của vốn đầu tư
đối với cộng đồng nói chung. Mục tiêu xã hội của các cuộc đầu tư tài giỏi, khéo léo là đánh bại những lực
lượng đen tối của thời đại và phá tan sự tối tăm đang bao phủ tương lai của chúng ta. Mục đích thực tại của
công cuộc đầu tư tư nhân khéo léo và tài giỏi nhất ngày nay là phải “chớp lấy thời cơ” như người Mỹ thường
nói, phải mưu mẹo và láu cá hơn công chúng và chuyển ngay cho người khác mọi điều bất lợi.
Cuộc đấu tranh về mưu mẹo và tài trí này để dự đoán trước cơ sở đánh giá theo quy ước một vài tháng sau
hơn là để ước tính lợi tức triển vọng của một số vốn đầu tư trong một thời gian dài nhiều năm, không cần phải