ngoan được mọi người chấp nhận dạy chúng ta rằng thà bị thất bại như mọi người còn hơn là thành công khác
mọi người.
(5) Cho đến đây, chúng ta chủ yếu lưu ý đến mức độ tin cậy của người đầu cơ hay nhà đầu tư có tính cách đầu cơ,
và hình như chúng ta cũng mặc nhiên giả định rằng nếu nhà đầu tư tự thoả mãn với những triển vọng thu được
những lợi tức khả quan, thì ông ta có thể tha hồ kiểm soát tiền tệ theo lãi suất trên thị trường. Dĩ nhiên, trường
hợp này không dễ gì có được trên thực tế. Do đó, chúng ta cũng phải tính đến một khía cạnh khác của mức độ
tin tưởng, đó là sự tin cậy của các tổ chức cho vay đối với những người muốn vay vốn, đôi khi còn được gọi là
mức độ tín nhiệm. Việc giảm giá của các cổ phần không có lãi cố định gây ra một tác động tai hại đến hiệu suất
biên của vốn và có thể bắt nguồn từ sự suy giảm niềm tin trong hoạt động đầu cơ hay từ mức độ tín nhiệm.
Nhưng nếu sự suy giảm của một trong hai nhân tố này cũng đủ đưa đến sự giảm giá, thì sự phục hồi lại đòi hỏi
phải có đủ cả hai nhân tố. Bởi vì nếu sự suy giảm tín nhiệm đủ để gây ra việc giảm giá thì sự củng cố tín nhiệm
tuy là một điều kiện cần cho sự phục hồi nhưng lại không phải là một điều kiện đủ để tạo nên sự phục hồi ấy.
VI
Những điều suy xét trên đây không nên lọt ra ngoài phạm vi nhận thức của nhà kinh tế học. Nhưng chúng
phải hướng về thực tế khách quan của chúng. Nếu như tôi được phép dùng thuật ngữ đầu cơ chỉ hoạt động dự báo
tâm lý của thị trường, và thuật ngữ kinh doanh chỉ hoạt động dự báo lợi tức tương lai của tài sản vốn trong suốt
thời gian sử dụng vốn, thì chúng ta thấy rằng không thể nào đầu cơ lại luôn luôn chế ngự được kinh doanh. Tuy
nhiên, khi việc tổ chức các thị trường đầu tư được phát triển thì sự chế ngự của đầu cơ lại có xu hướng tăng lên.
Tại một trong những thị trường đầu tư lớn nhất thế giới như New York, ảnh hưởng của hoạt động đầu cơ (theo
nghĩa trên) thực tế là to lớn. Ngay cả ngoài lĩnh vực tài chính, người Mỹ thường quan tâm quá mức tới việc tìm
hiểu đâu là dư luận chung của mọi người, và điểm yếu mang tính chất quốc gia này bị phản đối trên thị trường
chứng khoán. Người ta thường nói ít khi người Mỹ lại làm như người Anh là đầu tư chỉ vì “lợi tức”, người Mỹ chỉ
sẵn sàng đầu tư khi hy vọng là chứng khoán tăng giá trị. Nói một cách khác, khi người Mỹ mua cổ phần đầu tư,
người đó đặt hy vọng không phải vào lợi tức tương lai mà là vào một sự thay đổi thuận lợi về cơ sở định giá theo
quy ước, nghĩa là theo nghĩa nói ở trên, anh ta là một nhà đầu cơ. Các nhà đầu cơ, cũng chẳng khác chi các bong
bóng, có thể không gây hại gì đến dòng hoạt động kinh doanh ổn định. Nhưng tình thế sẽ trở nên nghiêm trọng khi
hoạt động kinh doanh lại biến thành bong bóng trong cơn lốc đầu cơ. Khi việc phát triển tư bản trong một nước trở
thành một thứ phẩm của các hoạt động trong sòng bạc, thì việc phát triển tư bản đó có thể trở thành một việc làm
tồi tệ. Nếu người ta cho rằng mục tiêu xã hội là hướng các cuộc đầu tư mới vào những phương hướng thuận lợi
nhất xét về mặt lợi nhuận tương lai thì người ta không thể đề cao các phương pháp tiến tới thành công của Wall
Street (phố tường) như là một thắng lợi to lớn của chủ nghĩa tư bản tự do kinh doanh. Điều này không làm cho ai
ngạc nhiên cả nếu như tôi nghĩ đúng là những bộ óc tuyệt vời nhất của Wall Street trên thực tế đã được hướng về
một mục đích khác.
Những khuynh hướng trên đây là hậu quả khó tránh được của việc chúng đã tổ chức khá thành công những
thị trường đầu tư “dễ chuyển hoán”. Mọi người thường đồng ý rằng các sòng bạc là không thể vào được và rất tốn
kém. Đó không phải là lợi ích của quảng đại quần chúng. Có lẽ ý nghĩ đó cũng đúng với các thị trường chứng
khoán. Thị trường chứng khoán London tỏ ra ít gây tác hại hơn so với Wall Street. Điều đó không hẳn là do sự
khác nhau về đặc tính dân tộc mà do con đường đi đến phố Throgmorton Street đối với người Mỹ bình thường là
không thể vào nổi và quá ư tốn kém. (Hai phố nơi có cơ sở giao dịch chứng khoán). Hoa hồng khá cao cho người
trung gian hoạt động về chứng khoán; chi phí môi giới và tiền thuế chuyển nhượng cao phải đóng cho ngân khố ở
thị trường chứng khoán London làm giảm mức độ chuyển hoán của thị trường ở đây (mặc dù hoạt động của những
tài khoản thanh toán theo định kỳ nửa tháng một có tác dụng khác hẳn). Điều đó đủ để xoá bỏ một phần lớn các
công việc giao dịch vốn là đặc điểm của Wall Street
. Việc đánh một loại thuế chuyển nhượng cao của chính phủ
có thể là một cải cách có ích nhất hiện đang thi hành ở Mỹ nhằm làm giảm bớt uy thế của đầu cơ đối với kinh
doanh ở Mỹ.