bình thường. Nếu sự lo sợ về việc một chính phu Công đảng lên cầm quyền hay chính sách kinh tế xã hội mới
(New Deal của tổng thống Mỹ Roosevelt ban hành năm 1932) làm trì trệ công việc kinh doanh, thì đó không nhất
thiết là kết quả của một dự tính hợp lý hay của một âm mưu chính trị, mà đó chẳng qua là hậu quả của việc đảo lộn
sự cân bằng tinh vi của niềm lạc quan tự phát mà thôi. Do đó, khi đánh giá triển vọng của đầu tư, chúng ta phải
chú trọng đến tâm tư tình cảm, tình hình căng thẳng, sự chị đựng cũng như cách phản ứng của những người mà
vốn đầu tư phụ thuộc vào hoạt động tự phát của họ.
Từ việc này, chúng ta không nên kết luận rằng mọi sự việc đều tuỳ thuộc vào những tình huống tâm lý thiếu
suy nghĩ. Ngược lại, tình trạng dự tính dài hạn thường luôn luôn ổn định, và nếu không được như thế thì các nhân
tố khác thường tạo nên ảnh hưởng bù trừ để cân bằng trạng thái. Chúng ta cần ghi nhớ rằng các quyết định của con
người tác động tới tương lai, dù đó là quyết định cá nhân, chính trị, hay kinh tế; các quyết định đó không thể dựa
chủ yếu vào các kỳ vọng toán học, vì thực ra không có cơ sở để tính toán như vậy, và chính sự thúc đẩy nội tâm
của chúng ta đã khiến cho bánh xe nhân loại xoay vần, trí tuệ của chúng ta thường phải cố gắng để lựa chọn một
trong những giải pháp tốt nhất có thể thực hiện được; tính toán khi cần phải thực hiện chỉ nhằm phục vụ cho các
mục tiêu của chúng ta; ngẫu hứng, cảm tính hay may rủi những điều mà mọi người cần phải tính đến.
VIII
Ngoài ra còn có một số nhân tố quan trọng làm giảm bớt một phần nào trên thực tế những tác động của sự
thiếu hiểu biết của chúng ta về tương lai. Do tác dụng của lãi kép cùng với khả năng bị lỗi thời theo thời gian, cho
nên có nhiều vụ đầu tư cá nhân mà lợi tức triển vọng bị chi phối một cách chính đáng bởi những kết quả của một
tương lai tương đối gần. Trong trường hợp loại đầu tư rất dài hạn quan trọng nhất là xây cất bất động sản, rủi ro
thường chuyển từ nhà đầu tư sang người thuê nhà, hay ít nhất cả hai đều cùng nhau chia sẻ rủi ro bằng các hợp
đồng dài han. Rủi ro đó được người thuê nhà cho là không đáng kể vì họ được hưởng việc thuê nhà liên tục và khá
an toàn về quyền sử dụng. Trong trường hợp loại đầu tư dài hạn quan trọng khác là các công trình lợi ích công
cộng (điện, nước), một tỷ lệ đáng kể của số lợi nhuận tương lai được đảm bảo với những ưu đãi có tính độc quyền
kèm theo với quyền nâng cao các suất thu để đảm bảo mức lợi nhuận quy định nào đó. Sau cùng, có một loại đầu
tư ngày càng nhiều do chính phủ tiến hành và đảm nhận tất cả mọi sự rủi ro. Khi thực hiện đầu tư, chính quyền
thường bị ảnh hưởng bởi sự dự tính chung cho rằng có thể sẽ có những lợi ích xã hội trong tương lai từ nguồn vốn
đầu tư, bất kể số lợi nhuận thu được về mặt thương mại có thể nằm trong một phạm vi rộng, và cũng không tìm
mọi cách để được thoả mãn là dự tính về lợi nhuận trên cơ sở toán học ít nhất cũng bằng lãi suất hiện hành, mặc
dù lãi suất mà chính phủ phải trả có thể vẫn còn đóng một vai trò quyết định trong việc ấn định mức đầu tư mà
chính phủ có thể thực hiện được.
Như vậy, sau khi đánh giá đầy đủ tầm quan trọng về ảnh hưởng của những biến động ngắn hạn về tình trạng
dự kiến dài hạn khác với những biến động về lãi suất, chúng ta vẫn có thể quay lại với những biến động về lãi suất
mà trong hoàn cảnh bình thường có thể gây ra ảnh hưởng lớn, tuy không phải là quyết định, đến mức độ đầu tư.
Tuy nhiên, chỉ có kinh nghiệm mới có thể cho thấy việc điều tiết lãi suất có khả năng đến mức nào trong khi liên
tục khuyến khích một khối lượng đầu tư thích hợp.
Về phần tôi, giờ đây tôi hơi hoài nghi về thành công tác chính sách đơn thuần tiền tệ nhằm tác động đến lãi
suất. Vì Nhà nước có khả năng tính được hiệu quả biên của tư liệu lao động trên quan điểm lâu dài và trên cơ sở
lợi ích xã hội nói chung, nên tôi muốn thấy Nhà nước có trách nhiệm lớn hơn nữa trong việc trực tiếp tổ chức đầu
tư, vì hình như là những biến động trong sự ước tính của thị trường về hiệu quả biên của các loại vốn khác nhau
được tính theo nguyên tắc như tôi đã trình bày ở trên, sẽ quá lớn nên không thể được bù lại bởi những biến động
khả dĩ về lãi suất.
Bằng nhóm từ “rất không chắc chắn’ tôi không có ý nói đến “không có xác suất”. Xin xem “luân trình về xác suất” của tôi, chương 6, về “quyền số
của các lập luận”.