LÝ THUYẾT TỔNG QUÁT VỀ VIỆC LÀM, LÃI SUẤT VÀ TIỀN TỆ - Trang 211

có giảm chậm hơn lãi suất ròng, và các phương pháp của tổ chức ngân hàng và tài chính hiện có không thể
giảm lãi suất ấy xuống thấp hơn một mức tối thiểu nào đó. Điều này đặc biệt quan trọng, nếu ước lượng thấy
rủi ro tinh thần là đáng kể. Vì khi rủi ro là do người cho vay nghi ngờ về sự thật thà của người vay thì trong
không muốn trở lương, sẽ không có suy nghĩ để bù đắp chi phí phát sinh thêm này. Điều này cũng quan trọng
trong trường hợp cho vay ngắn hạn (chẳng hạn, các khoản vay ngân hàng), khi phụ phí khá cao; - ngân hàng có
thể phải đòi khách hàng phải trả 1,5 đến 2% phụ phí, mặc dù lãi suất ròng đối với người cho vay là số không.

IV

Dù phải đề cập trước đến cái gì là chủ đề đúng hơn của chương 21 ở phần sau, thiết tưởng cũng lý thú nếu ở

phần này sơ bộ nêu lên quan hệ giữa nội dung trình bày ở trên với lý thuyết định lượng về tiền tệ.

Trong một xã hội tĩnh hoặc một xã hội trong đó vì bất kỳ một lý do nào khác không một ai cảm thấy ngờ vực

về các lãi suất tương lai, thì hàm độ chuyển hoán L

2

, hoặc thiên hướng tích trữ (chúng ta có thể nói như vậy), sẽ

luôn luôn là số không trong trạng thái cân bằng. Do đó, trong trạng thái cân bằng M

2

=0 và M=M

1

; cho nên mọi

biến động của M sẽ buộc lãi suất giao động cho đến khi thu nhập đạt tới một mức tại đó lượng biến động của M

1

bằng lượng biến động giả định của M. Bây giờ M

1

V = Y, trong đó V là tốc độ chuyển hoá thu nhập của đồng tiền

như đã định nghĩa ở trên và Y là tổng thu nhập. Như vậy, nếu có khả năng tính được khối lượng O và giá P của sản
lượng hiện hành, thì chúng ta có Y=OP và do đó MV = OP; điều này hoàn toàn giống lý thuyết định lượng về tiền
tệ dưới dạng cổ truyền của nó

(2)

.

Khi áp dụng vào thế giới thực, lý thuyết định lượng này có một nhược điểm lớn là nó không phân biệt những

biến động về giá cả là hàm số của những biến động về sản lượng với những biến động là hàm số của những biến
động về đơn vị tiền công

(3)

. Có lẽ nên giải thích sự sai sót này bằng giả thuyết cho rằng không có thiên hướng tích

trữ và bao giờ cũng có đầy đủ việc làm. Vì, trong trường hợp này, khi O là không đổi và M

2

là bằng không, và nếu

chúng ta giả sử V cũng không đổi, thì suy ra rằng cả đơn vị tiền công cũng như mức giá sẽ tỷ lệ thuận với khối
lượng tiền tệ.

Chúng tôi phải để lại trình bày trong quyển V vấn đề cái gì sẽ quy định tính chất của sự cân bằng mới.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.