cao nhất (cao nhất sau khi khấu trừ - khoản rủi ro) đang thịnh hành tại một nước bất kỳ thuộc hệ thống quốc tế
này, thì lãi suất trong nước có thể cao hơn nhiều so với lãi suất ứng với tình trạng có đầy đủ việc làm ở trong nước.
Như vậy, một chính sách tiền tệ mà làm cho dư luận xã hội kinh ngạc bởi tính chất thử nghiệm hoặc tính dễ bị
biến động của nó, thì chính sách đó có thể không đạt được mục đích của nó là giảm mạnh lãi suất dài hạn, vì M
2
thường tăng hầu như vô giới hạn để đối phó với việc r giảm xuống thấp hơn một mức nào đó. Mặt khác vẫn chính
sách ấy cũng có thể thành công dễ dàng nếu nó được dư luận xã hội cho là hợp lý, thực hiện được, lại phù hợp với
lợi ích chung, dựa vào niềm tin vững chắc và được sự ủng hộ của giới chức không dễ bị bãi miễn.
Có lẽ sẽ chính xác hơn nếu nói rằng lãi suất là một hiện tương rất phổ biến, chứ không phải là một hiện tượng
tâm lý cao độ. Vì giá trị thực sự của lãi suất phần lớn bị chi phối bởi quan điểm phổ biến về việc dự tính giá trị của
nó sẽ là bao nhiêu. Bất kỳ mức lãi suất nào được chấp nhận với niềm tin là nó có khả năng lâu dài, thì lãi suất đó
sẽ được lâu dài. Tất nhiên, trong một xã hội thường biến động, thì lãi suất, vì mọi loại lý do, cũng giao động xung
quanh mực dự kiến bình thường. Đặc biệt, khi M
1
tăng nhanh hơn M, thì lãi suất sẽ tăng, và ngược lại. Nhưng lãi
suất có thể dao động hàng thập kỷ xung quanh một mức luôn luôn quá cao đối với tình trạng có đầy đủ việc làm,
đặc biệt là khi dư luận phổ biến cho rằng lãi suất tự điều chỉnh, cho nên mức lãi suất do công ước tạo nên được coi
là có cơ sở khách quan chắc chắn hơn nhiều so với công ước, và việc tình trạng có việc làm không đạt tới mức tối
ưu là không hề liên quan đến việc thịnh hành của một loạt lãi suất không thích hợp, cả dân chúng và giới chức đều
nghĩ như vậy.
Đến đây chắc bạn đọc thấy được những khó khăn trong cách duy trì nhu cầu thực tế ở một mức đủ cao để
đảm bảo có đầy đủ việc làm, điều này phát sinh từ mối quan hệ giữa một lãi suất dài hạn khá ổn định và phổ biến
với một hiệu quả biên của vốn thất thường và rất không ổn định.
Nếu muốn có một nguồn an ủi từ những suy tư đáng khích lệ hơn, thì chúng ta phải hy vọng rằng chính vì
công ước không dựa vào kiến thức chắc chắn, nên không phải bao giờ nó cũng cực kỳ đứng vững trước một mức
độ khiêm tốn trong sự nhất quán và kiên trì mục đích của giới chức tiền tệ. Dư luận xã hội có thể khá nhanh chóng
thích nghi với một mức giảm lãi suất vừa phải, và dự tính thông thường về tương lai có thể được thay đổi một cách
tương ứng, như vậy dọn đường cho một bước tiến tiếp nữa - tới một điểm nào đó. Việc giảm lãi suất dài hạn ở
nước Anh sau khi nước này từ bỏ bản vị vàng là một minh hoạ lý thú cho quá trình này; - những chuyển biến chủ
yếu được thực hiện bằng một loạt lần tăng vọt gián đoạn khi hàm độ chuyển hoán của dân chúng, sau khi đã thích
nghi với từng lần giảm liên tiếp, giờ đây sẵn sàng đáp ứng một hoài bão mới nào đó trong lĩnh vực thông tin hoặc
trong chính sách của các giới chức.
III
Chúng ta có thể tóm tắt phần nói trên thành một câu là trong bất kỳ tình trạng dự kiến nào dân chúng cũng
nghĩ đến một khả năng giữ tiền mặt nhiều hơn số tiền cần thiết cho động cơ giao dịch hoặc động cơ dự phòng, khả
năng này biến thành hiện thực dưới dạng các khoản tiền mặt thực sự với mức độ tuỳ thuộc vào điều kiện của giới
chức muốn tạo ra tiền mặt. Chính là khả năng này được đúc kết thành độ chuyển hoán L
2
.
Do đó, ứng với mỗi khối lượng tiền tệ do giới chức tiền tệ tạo ra, với các điều kiện khác nhau, sẽ có một lãi
suất xác định hoặc, nói chính xác hơn, một tập hợp lãi suất xác định cho các trái khoản có kỳ hạn thanh toán khác
nhau. Song, sự việc tương tự cũng đúng đối với bất kỳ nhân tố nào khác trong hệ thống kinh tế khi được xét riêng
biệt. Như vậy, cách phân tích đặc biệt này chỉ sẽ có ích và có ý nghĩa chừng nào còn có mối quan hệ trực tiếp đặc
biệt hoặc mối quan hệ hướng đích rõ ràng giữa những biến động về khối lượng tiền tệ và những biến động về lãi
suất. Nguyên nhân để chúng ta giả thiết rằng có một mối quan hệ đặc biệt như vậy bắt nguồn từ thực tế là nói
chung, hệ thống ngân hàng và giới chức tiền tệ thực hiện các giao dịch về tiền tệ và trái khoản, chứ không phải về
tài sản và hàng tiêu dùng.
Nếu giới chức tiền tệ trong những điều kiện xác định sẵn sàng giao dịch theo cả hai chiều về trái khoản thuộc
mọi kỳ hạn thanh toán và, hơn thế nữa, nếu họ sẵn sàng giao dịch về các trái khoản có mức độ rủi ro khác nhau,