Chặt chẽ hơn có thể định nghĩa lãi suất trung hoà là lãi suất thịnh hành trong trạng thái cân bằng khi sản
lượng và mức sử dụng nhân công đảm bảo sao cho độ co giãn về mức sử dụng nhân công về tổng thể là bằng
không
.
Một lần nữa, những điều nói trên cho ta giải đáp về câu hỏi cần phải có giả định ngấm ngầm nào để hiểu
được lý thuyết cổ điển về lãi suất. Lý thuyết này giả định rằng hoặc lãi suất thực tế luôn luôn bằng lãi suất trung
hoà như chúng ta vừa định nghĩa ở trên hoặc, theo cách khác, lãi suất thực tế luôn luôn bằng lãi suất mà sẽ duy trì
tình trạng có việc làm ở một mức bất biến xác định nào đó. Nếu lý thuyết truyền thống được cắt nghĩa như vậy thì
trong các kết luận thực tế của nó có ít hoặc không có gì để chúng tôi phải phản đối. Lý thuyết cổ điển giả định
rằng giới chức ngân hàng hoặc các tác nhân tự nhiên buột lãi suất thị trường phải thoả mãn bất kỳ một trong
những điều kiện trên. Và lý thuyết này nghiên cứu những quy luật nào sẽ chi phối việc sử dụng và bù đắp những
nguồn lực sản xuất của cộng đồng theo giả thiết này. Với hạn chế đang có hiệu lực này, khối lượng sản phẩm chỉ
phụ thuộc vào mức bất biến giả định của tình trạng có việc làm cùng với thiết bị và kỹ thuật hiện có; và chúng ra
sẽ yên tâm sống trong một thế giới kiểu Ricardo.
Mối quan hệ này lần đầu tiên được ông Sraffa nêu lên trong Economic Journal, tháng 3 năm 1932, tr. 50