MAO TRẠCH ĐÔNG - NGÀN NĂM CÔNG TỘI - Trang 100

Trước tình hình ấy, Chu Ân Lai đã thể hiện trách nhiệm chính trị

lớn lao, và năng lực trị quốc an dân tuyệt vời.

Năm 1960 là một năm tình hình kinh tế đất nước tồi tệ nhất,

nhiều người chết đói nhất, là năm khủng hoảng niềm tin đối với
Mao Trạch Đông xuất hiện trong toàn đảng, toàn quân, toàn dân, là
năm Mao Trạch Đông nên rút khỏi vũ đài chính trị. Trong bối cảnh
ấy, tháng 9-1960, Lâm Bưu triệu tập Hội nghị Quân uỷ Trung ương
mở rộng, ngày 20-10 ra nghị quyết ủng hộ Mao, với lời lẽ kinh
thiên động địa:

“Đồng chí Mao Trạch Đông là người Mác xít - Leninnít vĩ đại

thời nay. Tư tưởng Mao Trạch Đông là chủ nghĩa Mác-Lenin được
phát triển sáng tạo trong thời đại chủ nghĩa đế quốc đi tới sụp đổ,
chủ nghĩa xã hội tiến tới thắng lợi, trong thực tiễn cụ thể của cách
mạng Trung Quốc, trong sự phấn đấu tập thể của Đảng và nhân
dân. Tư tưởng Mao Trạch Đông là kim chỉ nam của nhân dân
Trung Quốc trong công cuộc cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã
bội, là vũ khí tư tưởng hùng mạnh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều… Nhiệm vụ căn bản nhất
trong công tác chính trị tư tưởng của quân đội là giương cao ngọn
cờ hồng Tư tưởng Mao Trạch Đông, lấy đó vũ trang hơn nữa đầu
óc cán bộ, chiến sĩ toàn quân, kiên trì dùng tư tưởng Mao Trạch
Đông thống soái mọi công tác”.

Từ Đại hội 7 năm 1945 trở đi, tuyên truyền Tư tưởng Mao Trạch

Đông là bản quyền của Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật số 2 trong đảng.
Tại Đại hội 8 (1956), Báo cáo chính trị và Điều lệ đảng đã xoá bỏ
cách nêu Tư tưởng Mao Trạch Đông, những năm gần đây vẫn nói
“Học tập tác phẩm của Mao Chủ tịch”. Lâm Bưu đột ngột lấy danh
nghĩa Hội nghị Quân uỷ Trung ương mở rộng đưa ra văn kiện vượt

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.