tác đảng, không chỉ huy sản xuất công nông nghiệp nữa, chỉ cùng
Lâm Bưu nắm công tác quân sự và Phong trào cộng sản quốc tế,
thời gian còn lại đọc sách, nghiên cứu lý luận. Mao một lần nữa đề
nghị chính thức thông qua văn kiện nội bộ, để Lưu Thiếu Kỳ làm
Quyền Chủ tịch Đảng trong thời gian ông ta dưỡng bệnh.
Từ đó Mao rút về tuyến 2 (nhưng không từ bỏ quyền lực), bắt
đầu thời kỳ Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình
chỉnh đốn, phục hồi kinh tế quốc dân. Sau hội nghị trên, trừ Mao
Trạch Đông và Lâm Bưu dưỡng bệnh ở miền Nam, các uỷ viên Bộ
Chính trị đều chia nhau xuống nông thôn điều tra nghiên cứu, giải
quyết nạn đói và các vấn đề tại chỗ.
Ba năm “Đại tiến vọt” hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, toàn bộ nền
kinh tế quốc dân rối tung lên, các tỉ lệ mất cân đối.
Một là mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, tỉ lệ tích luỹ trong
3 năm 1958-1960 là 33,9%, 43,9% và 39,6%, vượt xa tỉ lệ tích luỹ
bình quân hàng năm 24,2% trong Kế hoạch 5 năm thứ nhất.
Hai là mất cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, công
nghiệp gang thép phát triển dị hình, từ 1958 đến 1960, công nghiệp
nặng tăng trưởng 330%, trong khi nông nghiệp giảm 22,8%.
Ba là mất cân đối trong nội bộ ngành công nghiệp, sản xuất gang
thép chiếm nhiều năng lượng, nguyên vật liệu, giao thông vận tải,
khiến các ngành khác không có cách nào sản xuất bình thường.
Bốn là mất cân đối trong thu chi tài chính và mất cân đối nghiêm
trọng giữa sức mua xã hội và khả năng cung cấp hàng hoá.
Năm là mất cân đối giữa khả năng cung ứng lương thực hàng
hoá và nhân khẩu thành thị tăng nhanh. Lương thực năm 1959
đánh giá đạt 270 triệu tấn, thực tế chỉ có 170 triệu tấn. Năm 1960
giảm xuống còn 143,5 triệu tấn. “Đại tiến” biến thành “đại thoái”.