MAO TRẠCH ĐÔNG - NGÀN NĂM CÔNG TỘI - Trang 289

Cơ sở của nông nghiệp Thuỵ Điển là 11 vạn nông trang gia đình,

mà chỉ có 12.000 công nhân nông nghiệp làm thuê, gánh nặng chủ
yếu đặt lên vai các chủ nông trang và các thành viên gia đình họ.
Nhân khẩu tham gia sản xuất nông nghiệp ở Thuỵ Điển chỉ chiếm
3,8% tổng nhân khẩu cả nước, còn số người gia công, bảo quản
nông sản và sản xuất thực phẩm nhiều gấp 3 lần thế. Thuỵ Điển dư
thừa từ 30% đến 50% lương thực, thịt, hạt có dầu, xuất khẩu sang
các nước Ban tích. Thuỵ Điển cũng có tổ chức hợp tác xã phục vụ
các nông trang gia đình, như hợp tác xã con giống, hợp tác xã nghề
sữa hợp tác xã lâm nghiệp, xã viên tự bầu cơ quan lãnh đạo. Nông
dân có tổ chức riêng là Liên minh chủ nông trang Thuỵ Điển. Nhà
nước và Liên minh chủ nông trang bàn bạc các vấn đề quan trọng
như giá nông sản, trợ giá, tín dụng, thuế. Nhà nước và các hợp tác
xã ký hợp đồng kinh tế. Khi cần nâng cao lợi nhuận sản xuất nông
nghiệp hoặc giảm chi phí cho người tiêu dùng, nhà nước mới can
thiệp vào việc hình thành giá cả. Khi ấy, nhà nước phải trích ra vài
tỉ curon từ ngân sách quốc gia để trợ giá. Thông qua chính sách
kinh tế, nhà nước nâng đỡ các chủ nông trang nhỏ, “ràng buộc” các
chủ nông trang lớn.

GDP bình quân đầu người của Thuỵ Điển năm 2002 là 25.400

USD. Đã thiết lập chế độ phúc lợi xã hội toàn dân “từ lúc lọt lòng
tới khi rời khỏi cõi đời”. Một công dân Thuỵ Điển từ lúc ra đời đến
khi 16 tuổi được hưởng trợ cấp vị thành niên của chính phủ, ốm
đau được hưởng bảo hiểm y tế đi học từ giáo dục nghĩa vụ 9 năm
đến đại học đều không phải trả học phí, sau khi trưởng thành đi
làm lại được đưa vào hệ thống bảo hiểm xã hội, cho đến khi già
vào viện dưỡng lão, đi hết chặng đường cuối cùng của đời người.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.