bị đổ, hai ghế còn lại thì xộc xệch.
Có nghĩa là thầy thuốc Cát và hai người đang uống trà, ông ta “chủ tọa”
ngồi ghế phía trong. Hung thủ có lẽ là một trong hai người này, hay là cả
hai? Ghế bên phải bị đổ, có phải hung thủ ngồi ghế này không? Tại sao giết
người? Hắn đã nhảy dựng dậy, làm đổ cái ghế, và đâm chết thầy thuốc Cát?
Vạn Phúc bước lại cầm ấm trà lên xem xét: “Vẫn còn lưng ấm nước, tức
là mới rót ra ba chén trà. Và cả ba đều chưa uống.”
Cố Chấn: “Diêu ngọ tác kiểm tra nước trà xem sao.”
Diêu Hòa bước đến bưng chén trà lên quan sát. Trà màu nâu nhạt, hơi
đục. Là trà được đun, đáy chén vẫn còn cặn li ti. Trà nguội, ngửi không
thấy hương, nhưng hơi có mùi cay, tức là khi nấu trà cho thêm chút gừng và
hạt tiêu. Anh ngửi thật kỹ, không cảm thấy có mùi gì khác. Anh chấm đầu
ngón tay vào nước trà rồi đưa lên lưỡi nếm. Anh cảm nhận ra, còn có một
vị tê tê, tức là vị cà độc dược.
Từ năm mười một, mười hai tuổi, Diêu Hòa đi theo cha học nghề khám
nghiệm tử thi, trong đó khó nhất là khám nghiệm chất độc. Có hai cách
khám nghiệm: một là xem xét tình trạng thi thể, hai là dùng chó hoặc mèo
để thử chất độc. Lúc gấp gáp không tìm ra động vật thì phải dùng cách thứ
ba - tự mình nếm vậy.
Ngọ tác là nghề gia truyền của nhà họ Diêu, cách nếm chất độc cũng là
một bí truyền. Mỗi lần nếm chỉ châm một giọt nhỏ, không có gì đáng ngại,
cứ thế lâu ngày cơ thể sẽ có sức đề kháng chất độc. Lúc mới tập thì khá là
mạo hiểm, cơ thể chưa hề trải nghiệm các chất độc, nếm ít thì không cảm
nhận ra, nếm nhiều thì dễ trúng độc. Hồi đó Diêu Hòa từng nhiều phen bị
nhức đầu hoa mắt, rộp rát cả lưỡi. Sau hơn 5 năm anh mới dần nắm được
các loại độc tính. Nhận biết cà độc dược thì dễ như không.
Anh liền báo cáo Cố Chấn: “Cố đại nhân, trong nước trà có cà độc dược,
có thể dẫn đến tắc thở mà chết.”
Ánh mắt Cố Chấn trở nên nặng nề: “Thế ư? Thảo nào không ai uống trà
này.”