ghế đều chạm rỗng hoa văn hoa mai rất tinh tế, bên cửa kê một tủ nhỏ gỗ
mun, sát tường bên trong có bốn cái ghế gỗ mun dự phòng, cho nên,
khoảng trống còn lại thì hẹp. Hai cánh cửa sổ nhìn xuống đường cũng được
chạm rỗng hoa văn hoa mai, sơn đen bóng, giấy dán cửa sổ sáng sủa sạch
sẽ. Trên ba mặt tường đều viết đặc kín thơ văn với đủ các thể chữ Hành,
Khải, Thảo
chắc là do các thực khách văn nhân để lại.
Biện Nhi thấy Trì Liễu Liễu lúc này nhìn đám bàn ghế với ánh mắt bi
thương lẫn sợ hãi, cô nắm tay Trì Liễu Liễu, Trì Liễu Liễu gượng cười.
Diêu Hòa đứng giữa cái bàn và ô cửa sổ, tay chỉ xuống sàn: “Lúc đó thi
thể nằm ở đây.”
Biện Nhi bước lại, thấy lối rất hẹp, chỉ một người lách đi, cô mở cửa sổ,
dưới kia là đường phố, đối diện cũng là ngôi nhà hai tầng, tầng trệt bán
quần áo giày dép, tầng trên để ở, một phụ nữ trung niên đang nghé ra cửa
sổ, tay cầm chiếc áo định đặt lên cái sào để phơi. Biện Nhi ngoảnh lại hỏi
Mục Trụ đang đứng đờ ra: “Hôm đó anh Mục Trụ vào đây sau cùng, thấy
cửa sổ này mở hay đóng?”
Mục Trụ cau mày nghĩ ngợi, rồi đáp: “Hình như đang mở.”
Trì Liễu Liễu: “Hôm đó đã vào xuân, ánh nắng buổi trưa rất ấm, Tào Hỷ
mở cửa ra, nói là để cho thoáng khí.”
Biện Nhi gật đầu, rồi cô nghĩ: hôm đó nếu có ý đồ giết người thì có lẽ sẽ
không mở cửa sổ, vì mở rồi sẽ lại đóng lại, chỉ thêm phiền hà. Cứ biết thế
đã. Cô lại hỏi Mục Trụ: “Lúc anh vào, thì bàn ghế ra sao?”
Mục Trụ cố nhớ lại: “Bàn, vẫn thế… hai cái ghế hai bên… vì hai công tử
đã đã từng ngồi, rồi lại ra ngoài một lần, nên hơi nhích ra; cái ghế gần cửa
ra vào, trước đó Liễu Liễu ngồi, nhưng khi tôi bước vào thì Tào công tử
đang ngồi cái ghế đó.”
“Họ ra ngoài một lần à?”
“Phải! Họ xuống tầng dưới đi vệ sinh… tôi đang bưng trà cho khách thì
nhìn thấy họ đi xuống cầu thang.”