Cô lau mắt thật nhanh, rồi buông câu chốt hạ:
“Nhưng anh không thể căm thù Francis vì ông ấy đã mang lại cho em
những gì anh không thể.”
Không một lời nào chen thêm vào ánh nhìn dữ dội họ đang hướng về
phía nhau, Puccini cùng những giai điệu kịch tính đưa họ đến cuộc trao đổi
giữa hai tâm hồn. Cuối cùng, Jeremy đặt cái cốc rỗng xuống và phá vỡ mối
liên kết đó bằng việc quay người đi tìm một đồ vật bọc trong một miếng
vải.
“Em sẽ sớm hiểu ra anh là ai thôi,” cuối cùng anh thốt lên. “Anh là thiên
thần hộ mệnh của em, Jezabel ạ. Và cũng như mọi thiên thần hộ mệnh, anh
chỉ lộ mình một nửa. Có thể một ngày nào đó, em sẽ nhìn ra anh đúng như
con người thật sự của anh.”
Anh lấy ra một khẩu côn MI911 bán tự động và băng đạn đi kèm quấn
trong miếng vải, nạp đạn rồi cất khẩu súng vào cái bao anh nhặt trên giá.
“Còn Francis là một con quỷ trá hình, em đã bị nó lừa, có vậy thôi.”
Jezabel chĩa vào anh đôi đồng tử cháy bỏng và giận dữ hất đổ mọi thứ
trên bàn.
“Đủ rồi!” Cô thét lên.
Cô giậm chân rồi lao ra ngoài.
Jeremy siết bàn tay lại. Anh đặt bao súng vào bên trong áo vest, nhặt
quyển nhật ký rồi dúi nó vào một túi áo và lao theo dư âm giận dữ của nàng
tiên cá thanh tao đó.
Anh chạy theo cô đến tận phố Abbas nơi cô nhảy lên chuyến tàu điện
đầu tiên đúng lúc cửa tàu đóng lại. Jeremy tăng tốc, rượu làm máu anh
nặng trĩu, bộ óc thiếu khí của anh nặng hơn gấp ba lần, và đôi chân không
chịu vâng lời mà chạy nhanh như anh muốn. Anh cố hơn nữa, hơi thở dồn
dập, rồi nhảy lên bậc thang phía sau đoàn tàu điện vừa lúc nó tăng tốc.
Ánh sáng thành phố rì rầm trong đêm, trải dài sau lớp cửa kính đoàn tàu
điện, chìm vào đoàn người đoàn xe đi ngược chiều.