bó vết thương. Đợi khi hoàn tất mọi việc, khóe mắt cô liền đỏ lên, ngân
ngấn nước, rồi chẳng cầm lòng được thêm, nước mắt cứ thế thi nhau
tuôn rơi.
Tư Mã Khôi nén đau hỏi: “Sao Tuyệt lại khóc?”
Tuyệt cúi đầu, dùng tay quệt ngang dòng nước mắt đầm đìa trên
má: “Khi nãy tôi nhớ lại việc lúc chúng ta rời khỏi đất nước, cả đoàn hào
hùng như thế, vậy mà giờ đây chỉ còn sót lại ba người bọn mình.”
Nhắc đến việc này, cả Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều chùng lòng
xuống. Rất nhiều anh em bằng hữu đã phải bỏ mạng ở vùng đất Miến
Điện xa xôi này, hơn nữa cái chết của họ không những chẳng hùng tráng,
oanh liệt chút nào mà còn hoàn toàn vô nghĩa. Họ âm thầm nằm lại trên
mảnh đất lạnh lẽo nơi xứ người, vĩnh viễn không thể trở về cố hương,
còn người thân ở nhà từ nay cũng chẳng biết họ lưu lạc chốn nào mà tìm.
La Đại Hải trầm ngâm hồi lâu, mãi mới lắc đầu than thở: “Tớ nghĩ
mãi vẫn không ra, lúc bắt đầu khởi binh, thanh thế của Miến Cộng đúng
là mạnh như chẻ tre, dường như sắp đến ngày thắng lợi khải hoàn đến
nơi, ấy thế mà sau này nói hỏng là hỏng hẳn, tốc độ tan rã còn rách
nhanh hơn cả giấy dán diều.”
Tư Mã Khôi bất lực nói: “Đây vốn dĩ không phải đất làm cách
mạng, vì thiên không thời, địa không lợi, nhân không hòa. Tớ thấy cho
dù Guevara có tái thế mà bị quăng vào cái xó này thì cũng chẳng thể làm
nên trò trống gì.”
Nhân một chốc nghỉ ngơi ngắn ngủi giữa cuộc chiến đấu, ba người
liền ngồi phân tích cục diện đang phải đối đầu trước mắt. Quân đội nhân
dân Miến Điện cho đến thời điểm này, thì thực tế chỉ còn mỗi hư danh
mà thôi, đội du kích lẻ tẻ mấy người bọn họ khó mà làm nên kỳ tích gì.
Hơn nữa, tàn dư của quân đội chính quy đều hợp nhất với quân đặc phái
vũ trang của địa phương để trở thành quân đội quân phiệt, chiếm cứ mỗi
người một phương, họ trồng anh túc, buôn bán vũ khí quân đội, chỉ coi