nhốt đến chết dưới lòng đất tối đen này. Anh nghĩ thầm: “Dù sao sống
chết gì cũng chỉ một mạng, hôm nay liều chết xông lên, cho dù thực sự
có loài ác ma mượn xác hoàn hồn đi nữa, thì cũng phải nhìn cho rõ nó
mới được”. Lập tức, anh liền khoát tay gọi mọi người, xách súng đuổi
theo sau.
Hải ngọng thấy Tuyệt sợ xanh mặt, liền lên giọng trấn an, giúp cô
vững dạ: “Có gì đáng sợ chứ hả? Thằng cha trong tay chúng ta có phải
cây gậy đốt lửa đâu, khẩu súng săn mà bọn khọm Anh dùng đúng là lợi
hại lắm đấy, không chỉ nòng ngoại cỡ, khả năng sát thương lớn, mà bề
mặt bao phủ của đạn cũng rất rộng, chỉ cần ‘bòm’ một cái, ngay cả tê
giác cũng chẳng chống đỡ nổi, ban nãy chỉ vì tôi chưa quét sạch ranh
giới ngắm bắn, vì sợ sát thương nhầm mọi người, chứ không thì đã sớm
bắn nó tan xác...” nói xong liền cùng Tuyệt kẻ trước người sau chui vào
cửa đá.
Ngọc Phi Yến thấy hành động của ba kẻ liều mạng, trong lòng
nghĩ chắc họ đã phát điên. Cô ta hơi do dự một chút, nhưng vì sợ một
mình ở lại đường hầm tối đen như mực, biết đâu sẽ xảy ra bất trắc, thế là
đành cắn răng cắn lợi, theo chân hội Tư Mã Khôi.
Mọi người đều biết phía trước tất có nguy hiểm, bởi vậy thần kinh
người nào cũng căng thẳng, im tiếng nín hơi. Vừa chui qua cửa đá, họ
bèn tựa lưng vào vách, rồi ai nấy giơ súng cảnh giới, chuẩn bị tâm lí sẵn
sàng đối mặt với cái chết. Vậy mà trong bóng tối, tất cả vẫn yên ắng đến
kỳ lạ, chỉ nghe phía xa lờ mờ có tiếng nước chảy, dường như dòng suối
tồn tại ở đâu đây, ngoài ra chẳng còn thứ âm thanh gì khác. Trong khi đó,
Nấm mồ xanh lẻn trốn vào đây cũng chẳng thấy xuất hiện, ánh đèn chỉ
soi sáng ở khoảng cách chừng năm sáu mét, nên căn bản không thể phán
đoán bản thân đang đứng ở vị trí nào.
Tư Mã Khôi lo lũ cá sấu trong đường hầm bám đuôi theo, nên đợi
khi ba người còn lại vào hết, anh liền đóng cửa đá lại, và đồng thời cũng
phát hiện phía sau cánh cửa có một bức phù điêu. Bức phù điêu vẽ con
mãng xà trắng bập bềnh trên mặt biển sóng to gầm gào, vua Chăm Pa