phát hiện thấy đường nứt hay kẽ hở nào. Chẳng lẽ “tải” lại là tảng
đá khổng lồ nặng trình trịch? Nên cũng không biết nội dung kì quái
và thần bí khắc trên bích họa là thật hay giả! Mọi người cảm thấy
rất đỗi hoang mang, vì không có chút manh mối nào cả.
Tư Mã Khôi đành đối chiếu bích họa vu Sở lại lần nữa, thấy
ánh mắt hung ác của hai pho tượng thú bằng đồng mô tả trong bích
họa, khác hẳn với vẻ u uất, ảm đạm của chúng ngoài đời thật. Anh
liền lại sát gần xem, chợt thấy trong hai con ngươi của pho tượng
thú có máng xoay, bên trong rỗng ruột, cất giấu chiếc đèn hình nửa
viên ngói, đường nét tinh xảo, do bị bụi bám dày nên không lại gần
thì khó có thể phát hiện ra được. Tư Mã Khôi mở nắp, thấy thân
đèn còn một vật gì đó sót lại, hao hao giống hình cây nến, và nửa
phần bấc đèn; anh đoán chất liệu dẫn cháy là mỡ động vật hoặc sáp
nến, chứ không phải “long tủy”; có lẽ người ta dùng nó để thắp
sáng ngọn đền đã bị tắt từ hơn hai ngàn năm trước, nhưng không
ngờ giữa chừng lại xảy ra sự cố bất ngờ.
Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, liền bảo Nhị Học Sinh cầm đuốc
châm lửa vào ngọn đèn đồng bên trong.
Hải ngọng đoán già đoán non: “Cái hộp đá này chẳng lẽ lại là
thang máy hình hộp phi thẳng xuống mỏ quặng bên dưới à? Thắp
sáng đèn đồng tương đương mở máy phát điện, khởi động cho hệ
thống của nó thâm nhập lòng đất hả Khôi?”
Tư Mã Khôi mầy mò mãi mà không tìm ra bên trong có gì, nên
đành phải làm theo chỉ dẫn trên bích họa. Tuy nói thời xưa không
có thang máy, nhưng tương truyền hơn năm ngàn năm trước, khi
Hoàng Đế đại phá Xi Vưu ở Bắc Hải, ngài từng chế tạo cỗ xe chỉ
nam trong sương mù. Nghe nói chỉ cần ngồi lên xe, không cần định
vị phương hướng, bánh xe sẽ tự động lăn tròn, muốn sang đông là
được đông, muốn sang tây là được tây, bên trên lắp người gỗ để
phân biệt bốn hướng, đó là nguyên lý máy móc cổ xưa nhất, bởi
vậy, Hoàng Đế còn có biệt hiệu là Hiên Viên. Hai chữ Hiên Viên
không phải để chỉ tên địa danh, mà có lẽ liên quan đến việc chế tạo