động ở phía sau, nhưng khi đi xuyên qua vách đá, thâm nhập thạch
thất, thì không thấy ánh lửa đâu nữa. Trong sơn động sâu hút và
rộng lớn thế này, tầm nhìn có hạn đã khiến ngũ giác của con người
dường như đều giảm sút. Tư Mã Khôi thầm kêu khổ, anh bật đèn
quặng soi khắp bốn phía trên vách đá.
Cao Tư Dương mệt muốn quỵ xuống, cô thấy tim phổi như sắp
nổ tung đến nơi, tim đập thình thịch như trống gõ; nhân lúc này, cô
chống hai tay vào đầu gối thở gấp. Cao Tư Dương thấy hành động
của Tư Mã Khôi hơi lạ, nên không nhịn được hỏi: “Anh định tìm
thứ gì thế?”
Tư Mã Khôi nói: lúc trước tôi thấy người Nhị Học Sinh bê bết
máu, mới tiện thể quệt một ít, rồi ấn dấu tay vào vách đá làm ký
hiệu, rõ ràng ở chỗ cạnh huyệt động này, nhưng con mẹ nó gặp ma
hay sao ấy, bây giờ bốc hơi chẳng thấy đâu cả.
Cao Tư Dương kinh ngạc nói: “Anh lên cơn rồ à? Chỗ này làm
sao có thể có ký hiệu mà anh để lại ở phía sau chứ?”
Tư Mã Khôi hiểu rõ ý đồ của mình, anh chỉ muốn xác nhận
xem rốt cuộc cả hội đang phải đối mặt với tình cảnh gì. Anh suy
đoán, chỉ có hai khả năng mà thôi: thứ nhất là địa hình trong sơn
động giống nhau như đúc, thứ hai là mọi người đang lặp đi lặp lại
một hành động trong sơn động. Anh hiểu “vật gì cũng có lý riêng
của nó”, và vạn vật vạn việc đều trên cõi đời chỉ xoay quanh một
chữ “lý” đó. Đầu tiên, anh vốn nghĩ khả năng thứ nhất xem chừng
có vẻ hợp lý hơn, nhưng những gì đang hiển hiện trước mắt lại
khiến anh cảm thấy dường như chữ “lý” này bị lật đổ.
Nếu núi Âm Sơn vẫn hoàn chỉnh, thì nó còn cao hơn nhiều so
với phần mà mọi người nhìn thấy bây giờ. Vì do trong núi có một
hang động khổng lồ, nên hình thể ngọn núi vốn sừng sững chỉ còn
lại một phần ba, động đá thông với cửa động, có thể đánh ký hiệu
là thạch thất số 0, còn dưới chân vách đá của thạch thất số 0 lại có
ba huyệt động chạy thẳng vào nơi sâu hơn, và không gian sau khi
đi xuyên qua vách đá được đánh ký hiệu là thạch thất số 1. Điểm