rồi đột ngột thò tay ra phía trước tóm thật nhanh, lôi cổ kẻ mới đến lại gần
nhìn cho rõ.
Nhị Học Sinh dường như đang hoảng hốt, loạng quạng bước về phía này, do
mắt cận nặng nên cậu ta không nhìn thấy người ở trước mặt. Tư Mã Khôi ra
tay nhanh như gió, khiến cậu ta không né kịp, Tư Mã Khôi tóm chặt cổ cậu
ta chẳng khác nào đại bàng quắp chim sẻ, rồi anh vật mạnh Nhị Học Sinh
xuống, khiến mặt cậu ta vàng như nghệ, ngồi co ro thành một đống.
Ba người còn lại phát hiện động tĩnh bất thường, đều quay đầu lại, lúc đèn
quặng soi sáng khoảng không gian trước mặt, mới thấy tay Tư Mã Khôi
đang tóm cổ một người, mà người này lại chính là Nhị Học Sinh, cả hội thấy
da đầu bỗng dưng tê bì, da gà nổi toàn thân.
Hải ngọng vừa kinh ngạc vừa tò mò, bước lại gần Nhị Học Sinh nhìn không
chớp mắt, tình hình lúc này thật chẳng khác gì đang trải qua một cơn ác
mộng, nhưng những vết phỏng trên người do dòng nhiệt lưu bắn lên vẫn đau
rát như nhắc anh – rõ ràng không phải đang mơ, anh không kiềm được lẩm
bẩm tự hỏi: “Gã này là người hay ma không biết?”, lời vừa thốt ra ngay cả
bản thân cũng thấy không đúng. Cậu Nhị Học Sinh kia cơ thể vốn đã mong
manh yếu ớt, lại thêm phải chịu bao nỗi vất vả, bao phen sợ hãi dọc đường,
cậu ta kiên trì đến được bia đá thì như ngọn đèn hết dầu, chết gục trước tấm
bia, ngay cả thủ cấp cũng bị mọi người tẩm dầu, hỏa thiêu thành tro để
phòng người chết không bị côn trùng, chuột bọ gặm nhấm, chỉ lưu lại mấy di
vật tùy thân như chiếc bút máy, huy hiệu… Nếu cả hội có thể sống sót thoát
khỏi lòng đất, thì sẽ mang những di vật này về cố hương lập áo quan, coi
như cậu ta không bị chết nơi đất khách quê người, đây cũng là một cách an
táng từ thời xưa truyền lại. Cổ nhân có câu “người chết như đèn tắt”, một
người đã bị hóa xương cốt thành tro, sao bỗng dưng có thể chạy ra từ động