của chạy lấy người. Huyện cử người xuống điều đình cũng không xong. Bà
con đồng loạt đưa ra lý lẽ rằng, đất không thể làm ra được. Chỉ có ngần ấy
thôi, nên phải bảo vệ. Nhà máy thì phải xây ở những vùng đất bạc màu, còn
đất tốt thì nhất định phải giữ để dành, nếu không con cháu có thể đeo vàng
mà chết đói. Bà con nghe theo Bích, quyết không nhân nhượng bất cứ đoàn
cán bộ nào. Cuối cùng phải nhờ đến mưu kế của ông N.
Ông giáo làng mải kể không để ý đến vẻ bối rối của Việt. Bởi vì ông
N. chính là bố của anh, mọi người vẫn kính trọng gọi là Mr. N. Anh biết
chắc như vậy chứ không thể có ông N. nào khác. Việt phải cố trấn tĩnh để
có thể biết nhiều hơn những gì mình cần. Ông giáo làng mà biết con trai
của ông N. đang ngồi trước mặt, chẳng hiểu ông có kể tiếp hay không.
- Cụ biết gì về ông N., ông ấy có phép thần gì ạ? - Việt hỏi bằng thứ
giọng cố không để lộ ra chút cảm xúc nào.
- Ông ấy cũng đến gặp tôi - Ông giáo đáp - nhưng chỉ để hỏi xem quan
điểm của tôi thế nào. Tôi bảo tôi sẽ nghe theo chủ trương của cấp trên. Ông
N. không xảo ngôn như anh thanh niên có tên là Dụng. Đó là một người
lịch lãm, đi nhiều hiểu rộng, rõ là thâm trầm. Mọi lời ông ấy nói đều rất
khúc chiết, có lý, có tình và đặc biệt là rất dễ lọt tai. Ông ấy có vẻ bất đắc
dĩ phải làm những việc không thể dừng lại. Nhưng tôi tin rằng mọi việc sau
đó đều do ông ấy nghĩ ra cả. Cụ thể thế nào, anh nên gặp thẳng anh Bích
mà hỏi. Chỉ xin đừng nhắc đến tôi trước mặt anh ta. Với anh ta và nhiều
dân làng, tôi là kẻ bán đứng họ. Tôi thành thật không muốn nhớ lại bất cứ
chuyện gì liên quan đến cái nhà máy thép oan nghiệt ấy nữa.
Ông giáo nói xong thì dùng khăn chấm chấm vào khóe mắt. Việt
không bao giờ hình dung nổi đó là những giọt nước mắt cuối cùng của một
ông già hiền hậu. Vài tháng sau đó ông treo cổ tự vẫn, chỉ để lại mấy dòng
di chúc, trong đó có câu: “Tôi tự chết để chuộc tội với bà con và mong xóa
được án cho chính bản thân mình”.