đài, nọ Lê cố-trạch, gò đống gần xa, lâu đài liền cách. Cất
mặt lên Tam-Đảo đứng bên ; ngửng đầu tưởng Ba Vì ngồi
cạnh. Kìa thượng cổ tòa long chinh ngự, trầm hương trấn
Bắc hãy còn thơm ; tự trung gian xe ngựa đứt cương, loan
già Tây-luông còn dấu bánh ; ngó xem giống long-tu nhà
Lý, phi Tần sáu bộ khúc rồng quanh ; lá quỳ như tàn cái
nhà Lê, văn võ hai hàng giăng nhạn cánh, hoa san sát như
hàng cơ hàng đội, ba nghìn hồng phấn lúc ra quân ; hương
xanh rì ngọn thấp ngọn cao, mười vạn tinh-kỳ khi giáp
đánh. Kìa dân đó là đền xuân tế, nào voi đi đàn áp lính tiền
hô ; những xã kia là chỗ thu từ, đầu ngựa vía tiền phong
quân thét tránh. Hỏi rồng đá nghìn năm chầu đó, nước xô
kim cổ mấy hồi chuông ; hỡi nghê đồng vạn đại cười ai,
sóng lộn phế hưng bao độ khánh. Rồng chẳng rõ, hồ tinh
mấy cuộc, lung tung Lê Trịnh cốc cùng boong ; nghê rằng
hay nước những triều nào, lủng củng Lý Trần tiu với cảnh.
Sự có rõ chỉ ông đào rắn, người to đen đen giống đồng
đen ; sự có tường họa chú cưỡi beo, da mát lạnh lạnh như
thạch lãnh. Thế thì các anh không biết : giời mở nước An-
nam, đất khai tổ tích. Nguyên hồ này giời cho ông Rồng bà
Tiên, để lưu truyền cho con thần, cháu thánh. Đức Hùng-
Bàng là con giai nhớn vẫn thả cá thờ ; chú Bàn-Cổ là khách
bạn buôn, thường sang tắm cạnh. Đến Thiên-hoàng làm vua
nước Bắc, so Động-Đình rằng kém cạnh vui ; đức Long-
quân là chúa nhất nước Nam, gọi Lãng-Bạc những từ khi ý
mình. Sau Kinh-Dương Nghiêu sai đô-hộ, toan đem về đất
Bắc để bầy chơi ; biết Lạc-Hồng giời mở đế vương bài chí hộ
cho vua ta ngự hạnh. Tự Hùng-Đức được rùa bạch hạc,