nghe thân gia đi lại với Đường Nghiêu ; đến Hùng-Trang
được ngựa tử đài, tìm con gái bỏ đi vào Hương-Tích. Thương
quấy đục sai thần ba tuổi ngựa sắt đem rồng lửa đuổi Vũ
Đinh ; Tùy lại tranh sai thánh lên năm voi đá róng ngũ lôi
trừ Bắc-địch. Góc Lạng Bắc sinh giai tám thước, mắt bốn
ngươi vào phá Tần cung ; góc Nam-kỳ sinh gái trượng dư,
vú ba thước giữ toà Nam-Lĩnh. Góc Đông đó ai giồng muôn
cọc, xua quạ Ngô xô bể y ô ; góc Nam kia ai đánh trận
nghìn voi, đuổi chuột dúi chúi hang rúc rích. Triệu hổ tướng
đã toan cướp lấy, thấy long mâu mà phải kinh hồn ; Trần
hùng binh sau lại lấy về, thấy quy lỗ tự nhiên thất phách.
Quân Minh trước cờ sang đỏ khé, giờ chôi ra sông Nhị hãy
còn son ; quân Nguyên xưa áo cũng xanh lè, nay chảy
xuống Hoàn-Gươm còn lấp lánh. Tính từ thủa vua Kinh, vua
Cao, vua Mã góc hồ phơi muôn cốt còn vẫn chưa khô ; lại
cộng xem chúa Trưng, chúa Nguyễn, chúa Trần nước hồ
xuống sáu đầu còn chật ních. Biết mấy độ ngựa hồ quấy
đục, hồ vẫn trong xanh ; tự khi cầm hổ tướng đến nay, hồ
khôn di dịch. Đến vua Nguvễn khi ra mở nước, kỉnh hồ này
bụng nghĩ quân thân ; bởi vua Lê chính thống họ Hồng
dưng hồ ấy để làm gương cho tử tính. Hồ từ đấy giao cho
cai trị, hồ đầy sen nhưng cứ để lưu không ; chia phận hồ
cho các xã dàn, ăn lợi cá phải cung theo thuế chính. Dân
dưới hồ trên, dân bên hồ cạnh. Khi xuân nhật các dân mở
hội, vang mặt hồ chuông chống linh đình ; tiết thu nguyên
các xã kỳ thần, bóng lợi nước cờ tàn nhấp nhánh. Dân hát
đại trà, dân ca đại khánh ; góc nọ leo dây, góc kia bắt
trạch. Bài mặt nước, tổ tôm năm điếm, lịnh đổ hồi ù nảy chi