Bố trở nên bất động, và khuôn mặt dữ dội của ông truyền đến tôi những làn
sóng bất an vô tận trong lúc đợi tôi thốt lên lời ca ngợi và phục tùng. Tôi
nín thinh. Đôi khi chẳng có gì mỉa mai cho bằng sự im lặng.
“Vậy, con nghĩ sao?”
“Con chẳng hiểu bố vừa nói gì.”
Ông thở to, tựa như vừa cõng tôi trên lưng chạy vài vòng marathon. Thực ra
thì, bài diễn thuyết của ông gây ấn tượng rất sâu sắc trong tâm trí tôi, đến độ
một bác sĩ phẫu thuật có thể nhận ra những khe sâu trên đó. Và không chỉ vì
nó đã cấy một hạt giống khiến tôi rốt cuộc nghi ngờ bất kì cảm giác hay ý
nghĩ nào có thể xem là tâm linh của mình, mà vì không gì ức chế hoặc khó
chịu hơn cảnh một triết gia tự dồn bản thân đến đường cùng bằng suy nghĩ.
Và tối hôm ấy, lần đầu tiên tôi nhìn thấu vào cái góc khuất của ông, bước
đường cùng kinh khủng của ông, ngõ cụt buồn bã của ông, nơi bố đã tự
chủng ngừa để tránh bất kì điều kì bí hay tín ngưỡng nào xảy đến với ông,
để nhỡ Chúa có xuống trần và dọa vào mặt ông, ông sẽ không bao giờ cho
phép mình tin vào điều đó. Đó là đêm tôi hiểu ông không chỉ là một kẻ hoài
nghi không tin vào giác quan thứ sáu, mà là một kẻ hoài nghi-cực đoan,
không chịu tin vào cả năm giác quan còn lại.
Bố đột ngột ném chiếc khăn ăn vào mặt tôi và làu bàu, “Con biết gì không?
Bố rũ sạch duyên nợ với con rồi.”
“Đừng quên dùng xà phòng nhé,” tôi đáp.
Tôi nghĩ chuyện này cũng chẳng có gì bất thường - bố và con trai, hai thế
hệ người, lớn lên xa rời nhau. Dẫu vậy, tôi vẫn nhớ về thuở mình còn ấu
thơ, khi ông vác tôi trên vai đến trường, thỉnh thoảng vào thẳng trong lớp.
Ông thường ngồi ở bàn giáo viên và vác tôi nằm ngang trên vai ông rồi hỏi
những đứa trẻ đang mắt chữ o mồm chữ i, “Có ai thấy con trai tôi không?”
Nếu so sánh những thời điểm như thế với những thời điểm lúc này, nó chỉ
khiến ta thêm buồn mà thôi.