qua một xe tăng còn lại của sư đoàn thiết giáp, anh đã bảo vệ đồng đội rút
lui về Minxcơ. Trong trận Búc, anh lại bị hư một chiếc xe tăng nữa. Anh bị
thương, bò qua xe tăng khác và, thay cho người chỉ huy bị hy sinh, anh chỉ
huy đại đội xe tăng tiếp tục chiến đấu. Sau đó, bị cô lập sau phòng tuyến
Đức, anh cùng hai xe tăng khác tổ chức một đội biệt lập ba xe tăng. Anh
xông pha cả một tháng, tiến rất sâu vào sau trận địa giặc, tấn công những
đoàn vận tải cũng như những đội chiến đấu. Anh tự cung cấp xăng, đạn
dược và những đồ phụ tùng trên những nơi chiến trận mới toanh; trong
những thung lũng xanh tươi, gần đường cái, trong rừng rậm hay đầm lầy,
tản mác không biết cơ man nào các xe cộ đủ mọi loại bị phá hỏng chẳng có
ai canh giữ cả.
Anh vốn sinh đẻ ở vùng Đôrôgôbu. Khi nhận được tin bằng vô tuyến
điện, trên chiếc xe tăng chỉ huy của anh, báo rằng mặt trận lúc này đã di
chuyển về đúng quê hương anh, thì Gơvôđép không chịu được nữa. Anh
cho phá hủy ba xe tăng và, cùng tám anh em đồng đội còn lại, anh đi chân
băng rừng mà về.
Nhớ lại ngay trước ngày chiến tranh bùng nổ anh được nghỉ phép về
thăm làng, làng bé nhỏ bên một con sông, chạy quanh giữa những khu
rừng, ở đó, mẹ anh, một nữ giáo viên trường làng đang lâm bệnh nặng, và
cha anh một kỹ thuật viên nông nghiệp già, đại biểu Xô viết địa phương, đã
phải kêu con về thăm mẹ.
Gơvôđép như còn thấy gian nhà gỗ bé nhỏ, bên cạnh trường, thấy mẹ
anh, bé nhỏ ốm yếu, nằm trên đi văng cũ, chẳng còn hơi sức gì nữa, cha
anh, bận chiếc áo tuýtxo như kiểu mặc ngày xưa, ngồi kề bên giường người
bệnh, và sù sụ ho vừa xoắn râu cằm trầm ngâm suy nghĩ. Anh như còn thấy
ba người em gái của anh, đương lớn lên, cũng mảnh khảnh, tóc đen như mẹ
anh. Anh nhớ tới Giênia cô nữ y tá trong làng, mắt xanh biếc, người thon
thon, ngồi chung xe bò ra ga tiễn anh và được anh hứa sẽ viết thư về mỗi
ngày.
Tiến lên như một con thú bị lùng săn, qua những cánh đồng bị chà đạp,
những làng mạc bị đốt cháy và vắng, đến Biêlôruxi, vòng qua những thành