Ông Bậu đi lại chỗ chiến sĩ đài "2W". Ông nói cho cậu ta dịch mã:
"Còn mười lăm phút nữa".
- Báo cáo thủ trưởng, C3 báo về đã nằm ở vị trí xung kích.
Ông Bậu quay ngược nhìn về phía núi. Đêm cuối tuần trăng. Trên nền
trời vằng vặc một dàn sao giăng đầy. Bóng tối như loãng dần ra. Lưng đồi
phía tây để lộ gờ núi đen thẫm của dãy Hòn Vượn đồi Ngang, dốc Tranh,
Một Mái... Núi kế tiếp núi tạo nên một mảng xanh đen thẫm. Ông chờ đợi
một tiếng nổ phát ra từ nơi ấy. Những trái ĐKB của tiểu đoàn pháo K35 sẽ
là hiệu lệnh chung mở màn cho trận đánh.
Chiếc đồng hồ "nhái" trong tay ông sáng rực những đốm dạ quang,
chiếc kim phút như ngừng quay. Hai mươi bốn giờ nữa sẽ bước sang ngày
mồng 2-9 - ngày sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngày ông Bậu
rời làng Thanh Lương để gia nhập vào đội quân cảm tử "Nam tiến". Ông
Duy nói đúng. Trận đánh này nên gọi là trận đánh nhớ Bác. Bác ra đi vừa
tròn một năm.
Ông Bậu như thấy lòng mình run lên, rưng rưng nơi khóe mắt. Một lần
nữa, ông lại nhìn lên lưng núi đen thẫm. Dãy Hòn Vượn tựa như một con
sư tử ngồi nhìn xuống dải đất đồng bằng địch đã chiếm làm cứ điểm. Địch
tự hoạch định vùng ranh giới kiểm soát miền Tây bắc Huế. Trận đánh này
như một lưỡi dao nhọn thọc sâu vào lưng thằng địch. Nó sẽ nói rằng, vùng
hậu phương của chúng bây đất vẫn chuyển rung dữ dội.
Từ dưới chân "Con sư tử" chợt có ánh lửa sáng nhoáng nhoàng, tiếp
sau đó là một tiếng nổ dữ dội.
Ông Bậu ra lệnh trực tiếp vào chiếc máy "2W": Bắn!
Vài giây sau, cả khu vực Tứ Hạ rung lên như một trận động đất của
đạn nổ. Trước tiên là ánh thủ pháo chớp nhoáng ở khu vực trại lính bảo vệ.
Các mũi của đại đội 3 đã tấn công. Rồi cả dàn hỏa tiễn bộ binh B.41, B.40,