có nỗi hoảng sợ thần thánh với những chiếc quan tài, ông nhanh nhẹn bỏ qua
nguyên đoạn trong bài kinh sao cho buổi lễ diễn ra trong đúng ba mươi lăm
phút tròn trịa.
Mỗi phút một đô la, đó là một công việc hái ra tiền và Jo, vốn không
phải nhạc công duy nhất ông mục sư dùng đến mỗi khi có lễ, không bao giờ
quên lướt qua trang cáo phó trong số báo Chủ nhật để luôn là người đầu tiên
đăng ký lịch cho tuần kế tiếp.
Một buổi sáng thứ Tư có lễ tang, trong khi anh vừa bắt đầu một bản
fugue của Bach, Jo thoáng thấy một phụ nữ trẻ đi vào nhà thờ. Buổi lễ sắp
kết thúc, các con chiên bắt đầu đứng dậy đến chào từ biệt lần cuối bà
Ginguelbar, sinh thời là bà bán tạp hóa, chết một cách lãng xẹt vì bị những
thùng dưa hấu xếp thành chồng cao gấp đôi người bà đổ ụp xuống ngực. Bà
Ginguelbar không chết ngay, cơn hấp hối của bà chắc phải dài khủng khiếp
vì suốt cả một đêm bà nằm nghẹt thở dưới đống dưa đã khiến bà trút hơi thở
cuối cùng.
Milly đi vào với quần bò, áo phông cổ rộng và tóc xõa khiến Jonathan
chú ý, vì cô hoàn toàn lạc lõng giữa toàn bộ cử tọa. Từ vị trí ngồi chơi đàn,
chàng nhạc công có đặc quyền nhìn thấy mọi chi tiết dù nhỏ nhất diễn ra
trong nhà thờ.
Cho đến cả bây giờ, mỗi khi Milly cảm thấy buồn chán, Jo đều khiến
cô vui trở lại bằng cách kể một vài giai thoại tiếu lâm mà anh từng chứng
kiến. Những bàn tay nghịch ngợm luồn dưới một nếp váy hoặc vuốt ve cái
quần, những người hàng xóm lắm điều thì thầm to nhỏ không màng đến
buổi lễ, những cái đầu gật gù trước khi gục hẳn xuống, những cái đầu khác
quay ngang quay ngửa để liếc gái, điều ngược lại cũng có, thậm chí còn xảy
ra thường xuyên hơn người ta vẫn nghĩ, hay những tiếng cười rộ lên khi ông
mục sư ngọng líu ngọng lô gọi đến “trúa chời toàn lăng và xự khoan rung
của Người”. Ngay cả những quyển Kinh Thánh che giấu một chiếc điện
thoại di động hoặc một cuốn sách cũng không thoát khỏi tầm mắt Jo.