quyết mọi việc khi tới nơi và họ chỉ can thiệp khi cần thiết.
Tới gần cây cột thánh giá bên lề đường, họ đi theo một con đường đất
chạy về phía những đồng bằng hẻo lánh nhất đất nước.
Cuối con đường khiến họ bị rung lắc liên hồi rốt cuộc cũng xuất hiện
một căn nhà gỗ nhỏ gân bìa rừng.
Khi Clayton ra khỏi xe, Tom xuất hiện trên hiên nhà, tay đặt trên báng
súng đeo ở thắt lưng.
-
Tôi thấy ông là người biết giữ lời đấy. Ông hứa một ngày nào đó sẽ đến
thăm tôi và hôm nay ông đã đến rồi, Tom nói mà không hể để mắt tới các
cảnh sát đang ở phía sau lưng thẩm phán. Tôi muốn mời ông ăn tối, nhưng
ông tới hơi muộn, tôi ăn mất rồi.
-
Tôi những muốn thăm anh trong một hoàn cảnh khác. Tôi hình dung cô ta
đang trốn ở đầy?
-
Ông thấy đấy, nhà tôi chẳng rộng rãi gì, và chẳng có chỗ cho ai ẩn náu cả.
Còn nếu nói về người phụ nữ ông đã kết án ba mươi lăm năm tù trong khi
ông biết cô ấy vô tội, câu trả lời là không. Cô ấy đã kịp thoát khỏi tay tôi.
Tôi chưa báo với ông bởi tôi không lấy gì làm tự hào, có lẽ tôi quá già rồi.
Vào giờ này, chắc cô ấy đang ở Canada cũng nên.
-
Đừng có giả ngây giả ngô thế, Tom, tôi biết rõ cô ta đang ở sau những bức
tường kia. Chắc anh cũng hiểu tôi không đến đây mà không có lệnh bắt giữ.
Đừng làm mọi việc rắc rối hơn và để chúng tôi vào đi.
Tom nhìn Clayton chằm chằm và cười tươi.
-
Ông cứ hình dung tít bài trên các báo trang nhất ngày mai, “Đọ súng giữa
ba cảnh sát và một cảnh sát tư pháp liên bang với sự có mặt của một thẩm
phán sắp về hưu”, măng sét mới hay làm sao! Các anh muốn chứ? Tom hỏi
các đồng nghiệp.
Đám cảnh sát lúng túng nhìn nhau trước khi quay sang phía thẩm phán
Clayton.
-
Vì tôi chẳng có bí mật nào với ông, và bởi chúng ta quen nhau đã lâu, Tom
nói tiếp, tôi phải báo với ông rằng tôi đã tìm thấy cuốn sổ trứ danh mà
Agatha Greenberg thật sự đã ký nhận những lời thú tội. Cô ấy viết hay lắm,
có thể in thành sách được đấy. Nếu có chuyện gì xảy ra với tôi, tôi đã gửi nó