TÁC GIẢ
Jose Saramago sinh năm 1922 tại Azinhaga, thuộc tỉnh Ribatejo, Bồ Đào
Nha. Tác phẩm của ông đầy chất huyền thoại và đa nghĩa, gợi lại cổ tích
qua cách nhìn độc đáo về lịch sử, xã hội và con người. Văn của ông đi sâu
vào chỉ tiết, châm biếm và dí dỏm, siêu thực và đầy ẩn dụ. Mãi đến năm
sáu mươi tuổi ông mới được nhiều người biết đến qua tác phẩm Memorial
do Convento (Ký ức về nhà tu kín, 1982). Tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi
nhất của ông là O Evangelho Segundo Jesus Cristo (Phúc âm theo Chúa
Jesus, 1991), bị Thứ trưởng Ngoại giao Bồ Đào Nha loại khỏi danh sách
các tác phẩm đề cử giải Văn chương châu Âu. Ông nhận giải Nobel Văn
chương năm 1998.
Một số tác phẩm của ông gồm có: Manual de Pintura e Caligrafia (Cẩm
nang hội họa và thư pháp, 1977), Viagem a Portugal (Du lịch Bồ Đào Nha,
1981) O Ano da Mortc de Ricardo Reis (Năm vua Ricardo băng hà, 1984),
A langada de Pedra (Chiếc bè đá, 1986), História do Cerco de Lisboa (Trận
bao vây Lisbon 1989), Todos os Nomes (Mọi cái tên, 1997), O Conto da
llha Desconhecida (Chuyện hòn đảo vô danh, 1997), A Caverna (Hang
động, 2001), O Homem Duplicado (Kẻ giống hệt, 2003), Ensaio sobre a
Lucidez (Trong sáng, 2004), Don Giovanni ou O Dissoluto Absolvido (Don
Giovanni hay Gã phóng đãng vô tội, 2005), As Intermitências da Morte
(Thần chết tạm nghỉ, 2005), As Pequenas Memórias (Kỷ niệm ấu thơ,
2006), A Viagem do Elefante (Chuyến đi của con voi, 2008), Cain (2009).
Mù lòa (Ensaio sobre a Cegueira, 1995) dịch từ bản tiếng Anh, Blindness,
của Giovanni Pontiero, ông mất trước khi sửa xong bản dịch; Margaret Jull
Costa hoàn tất việc sửa bản tiếng Anh; nhà xuất bản Harcourt, Florida, ấn
hành năm 1999.
“Nếu ngươi có thể thấy, hãy nhìn.
Nếu ngươi có thể nhìn, hãy quan sát.”
(Sách ghi những lời cổ vũ)