tính của Thực tại tối hậu, của Thế giới và Tự ngã. Thí dụ Brahman đối
với Shankara có rất ít liên quan với thế giới thông thường và siêu vượt
mọi phân biệt chuẩn mực, và tự ngã đích thực thì đứng ngoài các
phạm trù thiện và ác. Nhưng cũng cần nói thêm rằng, Shankara cũng
có nhấn mạnh về những hiệu quả luân lý của mọi hành động cho
những người sống trong thế giới có điều kiện của maya. Sự quên
mình, hành động vì lòng thương xót có thể xóa bỏ các ranh giới sai
lầm và đưa đến một sự thể hiện cao hơn, trong khi ích kỷ và những
hành động hung bạo lại củng cố những ranh giới sai lầm và dẫn đến
những vòng nô lệ xa hơn. Ngoài ra, mặc dầu trên lý thuyết hệ thống tư
tưởng của Ramanuja đánh giá cao thế giới, nhưng đôi khi trong thực
tế một số chi tiết về thế giới lại được đánh giá trong chừng mực chúng
dẫn đến sự hiểu biết về Thượng đế, chứ không phải vì tự thân của
chúng.
Mặc dầu phụ nữ có tích cực tham dự vào những bàn luận siêu hình
trong Brihad Aranyaka Upanishad, và mặc dầu không có chứng cứ
văn bản nào cho biết phụ nữ cách nào đó bị loại ra khỏi những mục
đích cao hơn được diễn tả trong thư văn nói trên, trong thực tế phụ nữ
bị đặt ra ngoài tu hội những kẻ từ bỏ thế giới của Shankara, và họ
không bao giờ được phép phục vụ như tư tế đền thờ trong truyền
thống của Ramanuja đối với Shri Waishnavism. Mặc dầu Ramanuja
rộng mở truyền thống của mình cho phụ nữ và các đẳng cấp thấp bé,
Triết học Vedanta nói chung, và Trường phái Shankara nói riêng, vẫn
tồn tại trong tính cách rất thượng lưu biệt phái. Nó đòi hỏi một kẻ thực
hành văn tự tôn giáo phải được đào tạo cặn kẽ về Kinh sách, ít nữa là
trong sự mong chờ thể hiện được tri thức cuối cùng và cao nhất. Trong
xã hội Ấn Độ kinh điển, điều này sẽ loại bỏ tất cả mọi người, ngoại trừ
những ai thuộc những đẳng cấp cao. Và tất cả những ai bị loại ra khỏi
những công trình đào tạo như thế bởi gốc gác gia tộc (by birth), thì
đồng thời họ cũng bị loại ra khỏi cơ may đạt được tri thức tối cao đó –
ít nữa là trong cuộc đời này.