định của thế giới đa phức và linh hồn cá thể. Kết quả của lập trường
này là một cuộc sống đạo với những hành động sùng mộ nhìn nhận thế
giới một cách tích cực và sử dụng những giác quan thông thường để
theo đuổi những sinh nghiệm phúc hạnh về brahman không phân biệt.
Mặc dầu những kẻ khước từ thế giới vẫn còn có thể tìm thấy trong hầu
hết các trung tâm tôn giáo ở Ấn Độ ngày nay, nhưng những thực hành
sùng mộ tôn giáo trong đền thờ và miếu đường tại gia thì vẫn chiếm
phần ưu trội hơn trong truyền thống Ấn Độ giáo.
BÀN LUẬN PHÊ PHÁN
Triết học Vedanta được diễn đạt nơi Shankara và Ramanuja là
một truyền thống văn bản. Điều ấy có nghĩa, các nhà triết học Vedanta
− mặc dầu họ nhấn mạnh rằng bằng chứng cuối cùng của mọi việc
phải là kinh nghiệm − đã cơ bản đặt niềm tin trên các thư văn, thí dụ
như Brihad Aranyaka Upanishad, mà họ nhìn nhận là có thẩm quyền.
Nhưng nhiều triết gia ngày nay không còn chấp nhận các thư văn
như một nguồn đáng phải tin cậy của sự thật. Ngoài ra, triết học
Vedanta dựa trên khẳng định siêu nghiệm của Áo nghĩa thư suy tư trên
khái niệm brahman. Hẳn nhiên, điều này cũng gây nghi kỵ cho các
nhà triết học trần thế, bởi đối với các vị này ý tưởng siêu nghiệm là
một điều rất mơ hồ. Dẫu sao, cuối cùng, Vedanta là một nền triết học
“tôn giáo”. Các truyền thống triết học Ấn Độ khác biệt với nhiều
truyền thống triết học phương Tây chính ở điểm này, bởi phần lớn triết
học Ấn giáo nhắm trở nên một sự hỗ trợ thực tế cho kinh nghiệm tôn
giáo.
Trái ngược với các học thuyết khác được trình bày trong tập sách
này, triết học Vedanta tỏ ra ít bàn đến những đấu tranh và những cải
cách xã hội và chính trị hoặc về đạo đức học thực hành. Mặc dầu một
số người gần đây biện hộ cho triết học Vedanta đã phủ nhận sự cáo
buộc đó, nhưng điều này vẫn có một phần nào sự thực. Các thư văn
của triết học Vedanta đã bận tâm với việc thực hiện một tri thức và tự
do cao hơn cũng như với những vấn đề siêu hình liên quan đến bản