môi trường học tập ở đó. Từ xuân đến hè, qua thu tới đông, năm nối năm
khổ học. Sáng sớm múa một bài kiếm, nửa đêm ngủ nguyên quần áo, người
khác ngắm hoa thưởng nguyệt, còn ông tìm vui trong lục kinh. Một lần
đương triều hoàng đế Tống Chân Tôn đi qua. Mọi người tranh nhau ra xem,
chỉ Phạm Trọng Yêm đóng cửa không ra, ngồi ngâm nga như thường. Một
đồng học trách ông để lỡ cơ hội tốt, ông trả lời: Sau này gặp lại, chưa chắc
đã muộn! Có người thấy ông suốt năm ăn cháo, sinh hoạt thanh bần gian
khổ, liền cho ông thức ăn ngon. Ông không hề nếm một miếng, để thức ăn
ngon lên men, biến chất, mãi đến khi người ta trách tội, ông mới xin lỗi,
thong dong nói rõ: Tôi đã quen cuộc sống ăn cháo, một khi được ăn ngon,
sau này sợ không chịu nổi khổ.
“Công phu không phụ người chuyên cần”. Sau mấy năm, Phạm Trọng
Yêm đã thuộc làu kinh điển Nho gia. Mùa thu Đại Trung Tường Phù năm
thứ bảy và mùa xuân năm thứ tám (năm 1014), thông qua khảo sát thi cử,
trúng bảng trở thành tiến sĩ, từ đó bắt đầu gần bốn mươi năm sinh nhai
chính trị của ông. Khi tham gia ngự thí ở Điện Sùng Chính, lần đầu tiên
ông nhìn thấy hoàng đế Chân Tôn đã gần năm mươi.
VÌ DÂN ĐẮP ĐÊ,
NHIỆT TÌNH DẠY HỌC
Thiên Hi năm thứ năm (năm 1021) Phạm Trọng Yêm giữ chức Giám
quan kho muối, Hải lăng Tây Khê trấn châu Thái (nay là vùng gần huyện
Đồng Đào - Giang Tô). Ông đã nhanh chóng phát hiện đê biển ở nơi này do
nhiều năm không sửa chữa nên đã lở sụt rất nhiều, không chỉ ruộng muối
phải ngừng sản xuất mà ngay cả vùng ruộng lúa nhà ở của dân rộng lớn
cũng nhiều lần bị sóng biển đe dọa. Gặp khi triều lớn, thậm chí nước biển
ngập đến dưới chân thành Châu Thái, hàng ngàn hàng vạn dân li tán vì mất
nơi ở, sản lượng muối và tô thuế của quan phủ cũng bị tổn thất. Vì vậy ông
đã viết thư lên Giang Hoài Tào vận, Trương Luân, tha thiết trình bày lợi hại
của đê biển, kiến nghị lại vùng duyên hải châu Thông, châu Thái, châu Sở,
châu Hải (nay là từ cảng Liên Vận đến cửa sông Trường Giang), sửa chữa