“Có,” tôi nói, vẻ nghiêm trọng.
“Ồ.”
“Anh ta đã gọi em lúc một giờ sáng cách nay vài đêm để hát bài “Bootie
Call” của All Saints. Anh ta hát như một cậu bé trong nhà thờ.”
“Ồ,” Monday nói với một giọng nhẹ và ít lo lắng hơn.
“Vì thế rõ ràng anh có nhiều đối thủ để cạnh tranh,” tôi thêm vào.
“Có lẽ một vé vớt,” anh gợi ý. “Em biết không, ngay khi thấy mái tóc đỏ
của em bị phủ đầy rác rưởi và lá trong vườn, anh đã biết rằng anh muốn có
em. Anh chỉ không biết được cần phải làm gì. Công việc đã cho anh thời
gian. Vì vậy chả có gì là lãng phí thời gian của anh cả, nếu đó là điều mà em
đã lo lắng.”
Chúng tôi hôn nhau một lần nữa và tôi có thể hoàn toàn theo nghĩa đen
chuyển vào căn nhà lưu động bé tí xíu này và ở lại với Monday mãi mãi,
mặc kệ không ai trong hai chúng tôi có thể đứng thẳng dậy mà không phải
cúi đầu, nhưng rồi chúng tôi nghe những tiếng nói ngay bên ngoài cửa sổ khi
một nhóm người đang ngắm khu vườn.
“Này, anh đã mua cho em cái này.” Anh xoa mũi, gãi gãi thái dương, đột
ngột lên tiếng trong cơn bối rối với những từ rời rạc, và tôi thấy nó thật đáng
yêu. Tôi chỉ ngồi ở bàn và cười toe toét quan sát anh ta, không làm gì để
giúp anh hết. “Nó dành cho khu vườn của em,” Monday nói, ngượng ngùng,
“Nhưng nếu em nghĩ nó là ngốc nghếch, anh sẽ lấy nó lại, không sao cả. Nó
không có đắt tiền, anh thấy nó và nghĩ đến em, hoặc nghĩ là em có thể sẽ
thích nó, ý anh là, anh không thực sự biết một ai khác lại sống trong khu
vườn của họ nhiều như em, không kể đến mẹ anh tất nhiên là sống trong...
dù thế nào đi nữa, anh sẽ lấy nó lại nếu em không thích.”
“Monday, thật là một cách tuyệt vời để tặng một cái gì đó,” tôi ghẹo anh,
đặt bàn tay lên trái tim.
“Tập làm quen với điều đó đi,” anh nói một cách dịu dàng, rồi với qua
dưới mặt bàn và tặng tôi một món quà cho khu vườn. Anh che mặt bằng hai
bàn tay để không thể thấy được phản ứng của tôi. “Em có thích nó không?”
anh hỏi với giọng nghèn nghẹn.